Rối loạn tâm lý tiền bạc xảy ra khi một cá nhân liên tục thực hiện các hành vi tự hủy hoại và tự giới hạn tài chính của bản thân. Rối loạn xảy ra khi ý thức về tiền bạc bị tiêu cực hóa từ những trải nghiệm từ ấu thơ của mỗi người. Những trải nghiệm này bao gồm sự lo lắng, phiền não hoặc những sự kiện không hay trong cuộc sống liên quan đến tiền bạc. Các trải nghiệm này gây ra các ấn tượng theo nhiều mức độ và có thể kéo dài đến tuổi trưởng thành. Các ấn tượng đấy trở thành niềm tin cốt lõi (core belief) về tài chính trong tương lai của mỗi cá nhân.
Ý thức về tiền bạc được chúng ta tiếp thu từ những gì cha mẹ, gia đình và những người và ự việc xung quanh gửi đến: một mái ấm gia đình có rủi ro tan vỡ do suy thoái kinh tế, cha và mẹ cãi nhau xoay quanh chuyện tiền bạc, chủ nợ đến nhà. Hoặc ngược lại, bạn có thể sinh ra trong gia đình khá giả, được đáp ứng tất cả mọi nhu cầu mong muốn. Tất cả mọi người đều có kinh nghiệm tài chính cá nhân khác biệt. Hiểu rõ được điều này là bước đầu tiên để làm chủ tài chính của bản thân và khắc phục triệu chứng rối loạn tiền bạc. Tiếp theo chúng ta có thể tìm hiểu để xác định ý thức về tiền bạc xuất phát từ đâu và len lỏi vào tâm trí chúng ta như thế nào. Cuối cùng ta có thể sữa đổi chúng thành những ý thức tốt hơn và hiệu quả trong cuộc sống.
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã xác định được các rối loạn hành vi tài chính bao gồm:
- Chi tiêu quá mức (overspending)
- Chi tiêu quá thấp (underspending) do khủng hoảng tâm lý
- Mượn tiền liên tiếp (serial borrowing)
- Gian dối với vợ hoặc chồng về thu nhập và chi tiêu (financial infidelity)
- Nghiện làm việc (workaholic)
- Cho tiền người thân để kiểm soát họ (financial incest)
- Cung cấp trẻ vị thành niên một số tiền chi tiêu lớn để sau đó khiến trẻ không có động lực để tự nuôi mình dẫn đến phụ thuộc tài chính (financial enable & financial dependence)
- Tích trữ tiền bạc quá mức (hoarding)
- Những cảm giác xấu hổ xung quanh chuyện giàu nghèo
- Trốn Tránh Tiền (Money Avoidance): Những người chia sẽ quan điểm này thường tự tạo khoản cách giữa họ với tiền bạc. Giáo sư Klontz cho biết nhóm này thường lo lắng về mức độ tiêu xài thẻ tín dụng, tin rằng họ không xứng đáng để trở nên giàu có và có thể tự hủy hoại tài chính của bản thân khi có quá nhiều tiền. Những người của nhóm này thường có thu nhập thấp và ít tài sản.
- Tôn Thờ Tiền (Money Worship): Những người chia sẽ quan điểm này ngược hoàn toàn với nhóm trên, nhưng hành vi của họ cũng có tính hủy hoại tương tự. Họ tin rằng sự gia tăng trong thu nhập hoặc một vận may bất ngờ sẽ làm cho mọi thứ tốt hơn, và hạnh phúc bắt nguồn từ những thứ mà tiền có thể mua. Niềm tin này rơi vào nhóm những người nợ nần chồng chất vì lạm dụng thẻ tín dụng quá mức để mua những thứ gây ấn tượng với người khác. “Họ tin rằng tiền sẽ giải quyết tất cả các vấn đề” Giáo sư Klontz cho biết, “Đây là niềm tin ảnh hưởng tới đa số những người sống ở Mỹ.”
- Địa Vị Hóa Tiền (Money Status): Những người chia sẽ niềm tin này thường mang giá trị của bản thân so sánh với tài sản của họ. Nghĩa là càng nhiều tiền thì địa vị trong xã hội của họ càng cao. Những người này thường có rủi ro tài chính cao vì họ thường đầu tư tài chính vào các mục đích gây ấn tượng với bạn bè và những người xung quanh họ. Các hành vi điển hình là dùng tiền mua bằng cấp, chức vị trong xã hội.
- Cảnh Giác Tiền (Money Vigilance): Đây là niềm tin duy nhất không có một tác động tiêu cực lớn về tài chính. Những người có quan điểm này thường không muốn chia sẽ thông tin về thu nhập hoặc tài sản của họ và họ cũng không chi tiêu quá mức. Tuy nhiên sự thận trọng quá mức về chi tiêu khiến những người này không hưởng thụ những lợi ích mà đồng tiền có thể mang lại.
VAN T (VIET PSYCHOLOGY)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét