Chương 2
Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Ludwig von Mises (1881-1973) - CHỦ NGHĨA TỰ DO TRUYỀN THỐNG 4
07:23
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 2
Chính sách kinh tế tự do
5. Chủ nghĩa can thiệp
Lí tưởng xã hội chủ nghĩa đã bắt
đầu mất dần người ủng hộ. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về những
vấn đề của chủ nghĩa xã hội, cả về kinh tế lẫn xã hội học, chứng tỏ
tính bất khả thi của nó không phải là không tạo ra những hiệu quả nhất
định, còn sự thất bại của những cuộc thí nghiệm xã hội chủ nghĩa đang
diễn ra khắp nơi đã làm cho ngay cả những người ủng hộ nhiệt tình nhất
cũng phải lúng túng. Dần dần người ta cũng bắt đầu nhận ra rằng xã hội
không thể sống thiếu sở hữu tư nhân được. Song việc phê phán một cách
đầy ác ý đối với hệ thống sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất được tiến hành
trong suốt hàng chục năm qua đã để lại trong lòng người ta định kiến
chống lại hệ thống tư bản chủ nghĩa mạnh mẽ đến mức là mặc dù người ta
biết rằng chủ nghĩa xã hội là không phù hợp và bất khả thi nhưng người
ta vẫn không thể công khai thú nhận rằng họ phải quay về với quan điểm
tự do về sở hữu. Chắc chắn là người ta đã công nhận rằng chủ nghĩa xã
hội, tức là sở hữu công cộng các tư liệu sản xuất, nói chung hoặc ít
nhất là trong giai đoạn hiện nay là việc làm thiếu thực tế. Nhưng, mặt
khác, họ lại quả quyết rằng sở hữu tư nhân vô giới hạn các tư liệu sản
xuất cũng là điều không hay. Như vậy là người ta muốn sáng tạo ra con
đường thứ ba, tạo ra một hình thức xã hội nằm giữa, một bên là chế độ sở
hữu tư nhân tư liệu sản xuất và bên kia là sở hữu công cộng tư liệu sản
xuất. Sở hữu tư nhân được phép tồn tại, nhưng cách thức sử dụng của
những doanh nhân, của các nhà tư sản và địa chủ thì lại được điều chỉnh,
hướng dẫn và kiểm soát bằng những nghị định và cấm đoán do chính quyền
đưa ra. Đấy là cách người ta tạo ra hình ảnh mang tính khái niệm về thị
trường được điều tiết, về chủ nghĩa tư bản được bao bọc bởi các qui định
của chính phủ, về sở hữu tư nhân đã bị tước hết những tính chất được
cho là có hại bằng sự can thiệp của chính quyền.
Ta có thể nhận thấy rõ nhất ý
nghĩa và bản chất của hệ thống này sau khi xem xét một vài thí dụ về hậu
quả của sự can thiệp của chính phủ. Những biện pháp can thiệp có ý
nghĩa quyết định nhất mà chúng ta cần xem xét chính là những quyết định
nhằm ấn định giá cả hàng hoá và dịch vụ khác biệt với giá cả mà thị
trường tự do có thể xác lập.
Khi giá cả được hình thành trên
thị trường tự do hoặc được xác lập mà không có sự can thiệp của chính
quyền thì tiền thu được sau khi bán hàng sẽ bù đắp tất cả chi phí sản
xuất. Nếu chính quyền đặt giá bán thấp hơn thì tiền bán hàng sẽ không bù
đắp được chi phí. Trong trường hợp đó, nếu việc lưu kho không làm giảm
giá trị hàng hoá một cách nhanh chóng thì các nhà buôn và các nhà sản
xuất sẽ rút hàng hoá khỏi thị trường để chờ thời, hi vọng là chính quyền
sẽ huỷ bỏ quyết định. Nếu chính quyền không muốn để cho mặt hàng đó, do
sự can thiệp của họ mà biến mất hoàn toàn thì họ sẽ không chỉ tự giới
hạn bằng chính sách qui định giá bán mà họ sẽ phải hạ lệnh bán hết số
hàng hoá có trong kho với giá qui định nữa.
Nhưng như thế cũng chưa đủ. Nếu
giá được thị trường tự do quyết định thì cung và cầu sẽ bằng nhau. Nhưng
bây giờ, vì giá do nghị định của chính phủ xác định là thấp hơn cho nên
cầu sẽ tăng trong khi cung vẫn không thay đổi. Hàng hoá chứa trong kho
không đủ đáp ứng tất cả những người sẵn sàng mua với giá qui định. Một
phần nhu cầu sẽ không được đáp ứng. Cơ chế của thị trường - đấy là nói
trong trường hợp không bị can thiệp - tức là xu hướng nhờ sự thăng giáng
của giá cả mà cung cầu cân bằng với nhau đã không còn hoạt động được
nữa. Bây giờ những người sẵn sàng mua với giá qui định đành phải ra về
với hai bàn tay không. Những người đến sớm hoặc những người có thể lợi
dụng quan hệ với người bán đã mua hết, còn những người khác thì chẳng
mua được gì. Nếu chính phủ muốn tránh những hậu quả như thế - tức là
những hậu quả trái ngược với ý định của họ - thì họ sẽ phải tiến thêm
một bước nữa là phát hành tem phiếu và bắt buộc phải bán: bộ máy điều
tiết của chính phủ sẽ phải quyết định mỗi người được mua bao nhiêu theo
giá qui định.
Nhưng một khi hàng hoá đang có
đúng vào lúc chính phủ can thiệp bị bán hết thì vấn đề sẽ phức tạp hơn
rất nhiều. Vì phải bán hàng theo giá do chính phủ qui định nên sản xuất
sẽ không có lãi nữa, hàng hoá sẽ ít đi hoặc biến mất hẳn. Nếu chính phủ
muốn người ta tiếp tục sản xuất thì nó sẽ phải qui định giá nguyên vật
liệu, giá bán thành phẩm và tiền công lao động nữa. Nghị định về vấn đề
này không thể chỉ giới hạn cho một hay một vài lĩnh vực sản xuất mà
chính quyền cho là đặc biệt quan trọng, cần phải điều tiết. Việc điều
tiết sẽ phải bao trùm lên mọi lĩnh vực. Sẽ phải điều tiết giá của tất cả
các loại hàng hoá và lương của tất cả mọi người. Tóm lại, chính phủ sẽ
phải kiểm soát hoạt động của tất cả các doanh nhân, các nhà tư sản, các
điền chủ và công nhân. Nếu một số lĩnh vực sản xuất được để cho tự do
thì tư bản và lao động sẽ chảy vào đấy và chính phủ sẽ không đạt được
mục tiêu mà nó đề ra khi thực hiện hành động can thiệp đầu tiên. Nhưng
mục đích của chính quyền là gia tăng sản xuất trong chính lĩnh vực mà nó
cho là quan trọng và vì vậy mà nó tiến hành điều tiết. Nhưng kết quả
lại trái ngược hẳn với ý định, vì sự can thiệp của chính quyền mà lĩnh
vực này rơi vào suy thoái.
Rõ ràng là sự can thiệp của
chính phủ vào hoạt động của hệ thống kinh tế đặt căn bản trên quyền sở
hữu tư nhân tư liệu sản xuất sẽ không thể đạt được mục tiêu đề ra. Can
thiệp không những là vô ích mà còn đưa tới những kết quả trái ngược với
mục tiêu đề ra vì nó làm gia tăng đáng kể “cái ác” mà nó định chống lại.
Trước khi tiến hành kiểm soát giá cả, chính phủ cho rằng giá quá cao,
còn bây giờ thì không còn hàng hoá trên thị trường nữa. Nhưng đấy không
phải là mục đích của chính phủ, chính phủ chỉ muốn người dân mua được
hàng với giá rẻ hơn mà thôi. Tình hình hoá ra ngược lại và cũng theo
quan điểm của chính phủ thì việc thiếu hàng hoá còn là tai hoạ lớn hơn
nhiều. Theo ý nghĩa đó, ta có thể nói rằng việc can thiệp của chính phủ
chẳng những vô ích mà còn đi ngược lại mục đích đặt ra và chính sách
kinh tế với những biện pháp can thiệp như thế là không thực tế và không
thể tưởng tượng được vì nó mâu thuẫn với lí thuyết kinh tế.
Nếu chính phủ không thiết lập
lại trật tự bằng cách từ bỏ việc can thiệp, nghĩa là bãi bỏ việc kiểm
soát giá cả, thì nó sẽ phải đi những bước tiếp theo. Ngoài qui định cấm
bán với giá cao giá hơn giá qui định, chính phủ không chỉ phải đưa ra
những biện pháp buộc người ta bán hết hàng hoá có trong kho theo hệ
thống tem phiếu bắt buộc mà còn phải qui định giá trần cho những loại
hàng hoá cao cấp, kiểm soát tiền lương và cuối cùng là buộc cả doanh
nhân lẫn người lao động đều phải làm việc. Những biện pháp như thế không
chỉ được áp dụng cho một hay một vài lĩnh vực sản xuất mà sẽ bao trùm
lên toàn bộ nền kinh tế. Đơn giản là chỉ có hai sự lựa chọn: hoặc phải
tránh can thiệp vào sân chơi của thị trường tự do hoặc phải giao toàn bộ
bộ máy quản lí sản xuất vào tay chính phủ. Chủ nghĩa tư bản hay chủ
nghĩa xã hội: không có cách thứ ba.
Những người từng chứng kiến
những biện pháp của chính phủ nhằm ấn định giá cả bằng sắc lệnh trong
thời gian chiến tranh cũng như trong những giai đoạn lạm phát đều biết
rõ cơ chế của một loạt các sự kiện vừa được trình bày. Hiện nay mọi
người đều biết rằng việc kiểm soát giá cả của chính phủ chỉ dẫn đến kết
quả là những món hàng liên quan sẽ biến mất. Ở đâu kết quả cũng đều như
thế cả. Thí dụ, khi chính phủ qui định giá trần cho việc thuê nhà thì
nhà ở lập tức bị thiếu. Ở Áo, Đảng dân chủ xã hội gần như bãi bỏ tiền
thuê nhà. Hậu quả là, thí dụ như ở thành phố Vienna, mặc dù từ đầu cuộc
chiến số người sống trong thành phố đã giảm đáng kể và chính quyền địa
phương đã xây dựng hàng ngàn ngôi nhà mới nhưng hàng ngàn người vẫn
không tìm được nhà ở.
Xin xem xét một thí dụ nữa: qui định tiền lương tối thiểu.
Khi những sắc luật của chính
quyền hay những biện pháp quá khích của công đoàn không can thiệp vào
quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động thì người sử dụng
lao động sẽ trả cho mỗi loại công việc tiền lương đúng bằng sự gia tăng
giá trị mà công việc đó tạo ra trong quá trình sản xuất. Tiền lương
không thể cao hơn vì nếu cao hơn thì người sử dụng lao động không thể có
lời và anh ta sẽ buộc phải dừng dây chuyền sản xuất thua lỗ. Nhưng tiền
lương cũng không thể xuống thấp hơn vì công nhân sẽ chuyển sang các
ngành sản xuất khác, nơi họ được trả lương cao hơn và người sử dụng cũng
phải ngừng sản xuất vì thiếu công nhân.
Vì vậy mà trong nền kinh tế bao
giờ cũng có một mức lương sao cho mỗi người lao động đều tìm được việc
làm và mỗi doanh nhân, những người muốn giữ được lợi nhuận với mức lương
như thế, có thể tìm được người lao động. Các nhà kinh tế học gọi đó là
lương “tĩnh” hoặc “tự nhiên”. Lương sẽ tăng nếu số người lao động giảm
trong khi những điều kiện khác vẫn giữ nguyên và sẽ giảm nếu số vốn đầu
tư cho công việc đó giảm trong khi những điều kiện khác vẫn giữ nguyên.
Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng nói một cách đơn giản vế “lương” và
“lao động” là không hoàn toàn chính xác. Lao động khác nhau rất nhiều về
chất lượng và số lượng (tính theo đơn vị thời gian), tiền lương cũng
như thế.
Nếu nền kinh tế cứ giữ nguyên ở
trạng thái ổn định thì trên thị trường lao động - đấy là nói nếu nó
không bị chính phủ và tổ chức công đoàn can thiệp - sẽ không có người
nào bị thất nghiệp hết. Nhưng trạng thái ổn định chỉ là cấu trúc mà
người ta tưởng tượng ra trong lí thuyết kinh tế mà thôi, đấy là một thủ
thuật mang tính trí tuệ, cần thiết đối với quá trình tư duy, nó giúp
chúng ta hiểu rõ những quá trình kinh tế đang thực sự diễn ra quanh ta.
Nhưng thật may là, phải nói ngay như thế, cuộc sống không bao giờ đứng
yên một chỗ. Kinh tế không bao giờ đứng yên; thay đổi, chuyển động, sáng
kiến diễn ra thường xuyên; những điều bất ngờ luôn luôn xuất hiện. Bao
giờ cũng có những ngành sản xuất bị đóng cửa hay giảm sản lượng vì nhu
cầu sụt giảm, trong khi những ngành khác lại xuất hiện hoặc là mở rộng
sản xuất. Chỉ cần nghĩ đến vài chục năm gần đây chúng ta cũng có thể
liệt kê được rất nhiều ngành công nghiệp mới như công nghiệp ô tô, máy
bay, điện ảnh, tơ nhân tạo, đồ hộp, phát thanh. Những ngành công nghiệp
này hiện đang sử dụng hàng triệu lao động. Một số xuất phát từ những
ngành bị đóng cửa, nhưng phần đông là từ những ngành mà sự cải tiến về
công nghệ tạo điều kiện cho người ta giảm bớt nhu cầu về nhân lực.
Đôi khi sự thay đổi trong tương
quan giữa các lĩnh vực sản xuất diễn ra chậm chạp đến nỗi không có người
công nhân nào phải chuyển sang công việc mới; và chỉ có những người trẻ
tuổi, những người mới bắt đầu lao vào kiếm sống, mới tìm công ăn việc
làm trong những ngành nghề đang mở rộng hay vừa xuất hiện mà thôi.
Nhưng, nói chung, trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, với sự cải thiện
nhanh chóng điều kiện sống của con người, sự tiến bộ diễn ra nhanh đến
mức nó buộc người ta phải liên tục thích ứng. Hai trăm năm trước, sau
khi học được một nghề gì đó, người thanh niên có thể hi vọng sống với
nghề đó suốt đời mà không phải sợ thái độ bảo thủ như thế sẽ làm hại anh
ta. Hiện nay mọi sự đã khác. Người công nhân cũng phải thích ứng với
hoàn cảnh đang đổi thay, phải bổ sung kiến thức hoặc học thêm những điều
mới. Anh ta buộc phải rời bỏ những ngành nghề không cần nhiều lao động
như cũ nữa và tham gia vào những ngành nghề mới xuất hiện hoặc cần nhiều
công nhân hơn trước. Nhưng ngay cả khi anh ta vẫn làm công việc cũ thì
khi hoàn cảnh đòi hỏi, anh ta cũng phải học thêm kĩ năng mới.
Tất cả những điều trình bày bên
trên, thông qua việc thay đổi tiền lương, đều ảnh hướng tới người lao
động. Nếu xí nghiệp trong một ngành nào đó cần ít công nhân hơn thì nó
sẽ sa thải một số người, những người bị sa thải sẽ khó tìm được công
việc trong ngành sản xuất đó. Áp lực trên thị trường lao động do các
công nhân bị sa thải tạo ra sẽ làm cho tiền lương trong ngành đó giảm
đi. Đến lượt nó, điều này lại thúc đẩy công nhân tìm việc trong những
ngành đang muốn tìm công nhân và vì vậy mà sẵn sàng trả lương cao hơn.
Người ta sẽ thấy ngay rằng muốn
đáp ứng nguyện vọng vừa có việc làm vừa có lương của công nhân thì phải
làm gì. Nói chung, không thể đẩy mức lương lên cao hơn mức mà nó có thể
giữ trên thị trường, đấy là nói thị trường không bị nhà nước và áp lực
của các định chế khác can thiệp vào, để không tạo ra những hiệu ứng phụ
không có lợi đối với người công nhân. Một lĩnh vực hoặc một nước chỉ có
thể nâng lương nếu người ta không cho công nhân từ những lĩnh vực khác
hay từ nước khác chuyển tới. Những người công nhân bị cấm di chuyển đã
phải trả giá cho những lần tăng lương như thế. Lương của những người này
sẽ thấp hơn mức mà đáng lẽ ra họ có thể lĩnh nếu họ được tư do di
chuyển. Như vậy là việc nâng lương cho nhóm người này đã buộc nhóm người
khác phải trả giá. Chính sách ngăn cản quá trình dịch chuyển lao động
chỉ làm lợi cho những người công nhân trong những nước và trong những
ngành thiếu hụt lao động. Trong những ngành và những nước không bị thiếu
hụt lao động thì chỉ có một cách tăng lương sau đây: năng suất lao động
gia tăng do có thêm vốn liếng hoặc thông qua quá trình cải tiến qui
trình công nghệ.
Nhưng, nếu chính phủ qui định
mức lương tối thiểu cao hơn mức lương tĩnh hoặc tự nhiên thì người sử
dụng lao động sẽ thấy rằng họ không còn giữ được cho một loạt doanh
nghiệp có lãi như thời mức lương còn thấp nữa. Họ sẽ phải thu hẹp sản
xuất và sa thải công nhân. Kết quả của việc tăng lương một cách nhân
tạo, nghĩa là mức lương được áp đặt cho thị trường, là số người thất
nghiệp gia tăng.
Bây giờ dĩ nhiên là người ta
không còn tìm cách qui định mức lương tối thiểu trên diện rộng nữa.
Nhưng sức mạnh của công đoàn cho phép họ làm như thế ngay cả khi không
có điều luật nào qui định như vậy. Khi công nhân thành lập tổ chức công
đoàn để mặc cả với giới chủ thì bản thân điều này không nhất thiết dẫn
tới sự rối loạn trong hoạt động của thị trường. Ngay cả sự kiện là họ tự
cho mình quyền vi phạm hợp đồng mà họ đã kí và tuyên bố đình công cũng
không làm rối loạn được thị trường lao động. Nhưng việc buộc người ta
phải tham gia bãi công và buộc người ta phải tham gia công đoàn, như
đang diễn ra trong những nước công nghiệp phát triển nhất ở châu Âu, lại
tạo ra một tình hình hoàn toàn mới. Vì những người công nhân tham gia
công đoàn không cho những người không phải là thành viên công đoàn của
họ vào làm việc và trong thời gian bãi công đã sử dụng bạo lực nhằm ngăn
cản những người khác đến thay thế cho những người bãi công cho nên đòi
hỏi về lương bổng mà công đoàn đưa ra cho người sử dụng lao động cũng có
sức mạnh chẳng khác gì mức lương tối thiểu do chính phủ qui định. Người
sử dụng lao động buộc phải chấp nhận đề nghị của công đoàn nếu không
muốn đóng cửa xí nghiệp. Người sử dụng phải trả mức lương cao và giảm
bớt sản xuất vì giá thành cao thì không thể tiêu thụ được nhiều như khi
giá thành thấp. Như vậy nghĩa là công đoàn đòi mức lương cao chính là
nguyên nhân của nạn thất nghiệp.
Nạn thất nghiệp do nguyên nhân
này gây ra khác hẳn về tầm mức và thời hạn so với nạn thất nghiệp sinh
ra do sự thay đổi thường xuyên về loại sản phẩm và chất lượng mà thị
trường đòi hỏi. Nếu nguyên nhân của nạn thất nghiệp chỉ là do sự tiến bộ
diễn ra thường xuyên trong công nghiệp thì nó sẽ không thể kéo dài và
không thể làm cho nhiều người mất việc cùng một lúc được. Những người
lao động mất việc trong một ngành nào đó cũng sẽ tìm được việc trong
những ngành đang mở rộng hoặc vừa mới xuất hiện. Khi người lao động được
quyền tự do đi lại và luật pháp cũng như những trở ngại khác không gây
khó khăn cho việc chuyển từ ngành này sang ngành khác thì sự thích nghi
với điều kiện mới sẽ diễn ra một cách tương đối dễ dàng và nhanh chóng.
Ngoài ra, thị trường lao động cũng góp phần hạn chế tỉ lệ thất nghiệp
kiểu này.
Nhưng thất nghiệp là do sự can
thiệp của những tác nhân mang tính cưỡng bức đối với hoạt động của thị
trường lao động thì lại không phải là hiện tượng nhất thời, không phải
là hiện tượng thường xuyên nổi lên rồi lại biến mất. Nó là căn bệnh nan y
nếu nguyên nhân làm cho nó tồn tại vẫn còn, nghĩa là khi luật pháp hay
áp lực của công đoàn còn cản trở việc giảm lương theo đề nghị của những
người lao động không có việc làm, đến mức mà lẽ ra nó phải có nếu không
có sự can thiệp của chính phủ hay công đoàn, mà cụ thể là đến mức mà bất
cứ ai muốn làm việc cũng sẽ tìm được việc làm.
Việc chính phủ hoặc công đoàn
trợ giúp người thất nghiệp chỉ làm cho tình hình xấu thêm. Trong trường
hợp thất nghiệp là do những thay đổi diễn ra trong nền kinh tế, trợ giúp
chỉ làm cho quá trình thích nghi với nhiều kiện mới bị trì hoãn thêm.
Người công nhân mất việc nhưng lại được nhận trợ cấp sẽ không thấy có
nhu cầu phải tìm nghề mới nếu anh ta không tìm được việc trong nghề cũ
nữa; ít nhất là anh ta sẽ để mất nhiều thì giờ trước khi quyết định
chuyển sang nghề mới hoặc địa điểm mới hoặc trước khi anh ta giảm bớt
đòi hỏi về đồng lương để có thể tìm được việc làm. Nếu trợ cấp thất
nghiệp không đủ thấp thì ta có thể mạnh dạn nói rằng: còn trợ cấp thì
còn thất nghiệp.
Nhưng nếu thất nghiệp là do việc
tăng lương một cách nhân tạo do sự can thiệp trực tiếp của chính phủ
hoặc do chính phủ có thái độ nhu nhược trước các áp lực của công đoàn
thì vấn đề chỉ còn là: ai phải gánh chịu các chi phí phụ trội, người sử
dụng lao động hay là công nhân? Nhà nước, chính phủ, xã hội không bao
giờ phải gánh chịu chi phí đó, họ sẽ đặt lên đầu lên cổ người sử dụng
lao động hay là công nhân, hoặc lên cả hai. Nếu công nhân phải gánh chịu
thì họ sẽ bị mất toàn bộ hay một phần thành quả của việc tăng lương một
cách giả tạo mà họ vừa nhận được, thậm chí họ sẽ phải trả giá nhiều hơn
là sự tăng lương giả tạo mà họ vừa nhận được. Người sử dụng lao động
cũng có thể phải gánh chịu chi phí cho việc trợ cấp thất nghiệp dưới
dạng thuế tỉ lệ với tổng quĩ lương của doanh nghiệp. Trong trường hợp
này, bảo hiểm thất nghiệp làm cho giá nhân công tăng lên và như vậy là
làm cho tiền lương cao hơn mức lương tự nhiên: lợi nhuận do người lao
động mang lại sẽ giảm và số người lao động có thể được sử dụng cũng sẽ
giảm theo. Như vậy nghĩa là số người thất nghiệp sẽ gia tăng, giống như
một chiếc lò xo đang dãn ra vậy. Người sử dụng lao động còn có thể bị
buộc phải trả chi phí cho việc trợ cấp thất nghiệp thông qua thuế lợi
tức hoặc thuế đánh trên đồng vốn, không phụ thuộc vào số người lao động
mà họ sử dụng. Nhưng biện pháp này cũng chỉ làm tăng thêm thất nghiệp mà
thôi. Vì khi đồng vốn bị thuế khoá làm cho suy kiệt hoặc quá trình hình
thành đồng vốn mới ít nhất cũng bị chậm lại thì điều kiện sử dụng lao
động ceteris paribus [trong ki những điều kiện khác vẫn giữ nguyên -
tiếng Latinh – ND] cũng sẽ không được thuận lợi.
Rõ ràng là những chương trình có
tính xã hội nhằm loại bỏ hiện tượng thất nghiệp là những cố gắng vô
ích. Nguồn lực cần cho những dự án như thế phải được lấy từ thuế khoá
hoặc vay mượn mà đáng lẽ ra có thể được dùng cho những mục tiêu khác.
Bằng cách làm như thế, người ta có thể giảm thất nghiệp trong ngành này
nhưng lại làm gia tăng thất nghiệp trong ngành khác .
Dù nhìn chủ nghĩa can thiệp theo
khía cạnh nào thì ta cũng thấy rõ ràng là hệ thống này chỉ dẫn đến
những kết quả mà những người tạo ra nó và ủng hộ nó không muốn và thậm
chí là theo quan điểm của họ thì đây là chính sách vô nghĩa, thất sách
và phi lí.
6. Chủ nghĩa tư bản: tổ chức xã hội khả thi duy nhất
Mỗi một lần suy nghĩ về những
phương pháp tổ chức xã hội khác nhau trên cơ sở phân công lao động là
nhất định bao giờ ta cũng đi đến cùng một kết luận: chỉ có thể lựa chọn
giữa sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Tất cả những
hình thức trung gian đều vô tích sự và trên thực tế nhất định sẽ dẫn đến
thất bại. Nếu công nhận rằng chủ nghĩa xã hội cũng không thể thực hiện
được thì người ta không thể không thú nhận rằng chủ nghĩa tư bản là hệ
thống tổ chức duy nhất khả thi đối với xã hội dựa trên cơ sở phân công
lao động. Kết quả của công trình nghiên cứu lí thuyết như thế không làm
cho nhà sử học hay triết học lịch sử phải ngạc nhiên. Nếu chủ nghĩa tư
bản có thể đứng vững mặc cho thái độ thù địch của các chính phủ và của
quần chúng, nếu nó không phải nhường đường cho những hình thức hợp tác
xã hội được các lí thuyết gia và những người thực dụng ưu ái hơn, thì
chỉ là vì không có hình thức tổ chức xã hội nào khác tỏ ra khả thi mà
thôi.
Chẳng cần phải giải thích vì sao
chúng ta không thể quay lại với những hình thức tổ chức kinh tế và xã
hội của thời Trung Cổ. Hệ thống kinh tế thời Trung Cổ chỉ có thể nuôi
được một phần số người đang sống trên vùng lãnh thổ có người ở ở châu Âu
hiện nay, và nó cũng chỉ cung cấp cho mỗi người số lượng hàng hoá ít
hơn nhiều so với những gì mà phương pháp sản xuất tư bản hiện nay đang
cung cấp. Nếu người ta không sẵn sàng giảm dân số xuống còn một phần
mười hoặc một phần mười hai hiện nay và hơn nữa, không buộc mỗi người
phải chấp nhận tiêu dùng ít ỏi đến mức người đương thời không thể tưởng
tượng nổi thì chẳng nên nói đế chuyện trở lại thời Trung Cổ làm gì.
Tất cả những người cầm bút ủng
hộ cho việc quay lại thời Trung Cổ, hay như họ nói là “Tân” Trung Cổ,
coi đó là lí tưởng xã hội duy nhất cần phải hướng tới đều là những người
phê phán thời đại tư bản trước hết là do thái độ và tâm lí sùng bái vật
chất của nó. Nhưng thực ra họ lại là những người sùng bái vật chất hơn
là họ tưởng. Nhiều người trong số họ vẫn nghĩ rằng sau khi trở về với
hình thức tổ chức kinh tế và chính trị đặc trưng cho thời Trung Cổ thì
xã hội vẫn giữ được những tiến bộ về mặt công nghệ và nhờ đó mà vẫn giữ
được năng suất lao động cao như thời tư bản chủ nghĩa, đấy không phải là
chủ nghĩa duy vật thô lậu nhất hay sao? Năng suất lao động của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là kết quả của tâm lí tư bản và phương
pháp tiếp cận theo lối tư bản đối với con người và tiếp cận đối với việc
đáp cứng các nhu cầu của con người. Năng suất lao động là kết quả của
nền công nghệ hiện đại trong chừng mực khi mà sự phát triển của công
nghệ phải xuất phát từ tâm lí tư bản chủ nghĩa. Thật chẳng có gì vô
nghĩa lí hơn là nguyên tắc duy vật lịch sử của Marx: “Cối xay bột bằng
tay tạo ra chủ nghĩa phong kiến, cối xay bột bằng hơi nước tạo ra chủ
nghĩa tư bản”. Chính chủ nghĩa tư bản thấy cần phải tạo ra những điều
kiện thiết yếu cho việc phát triển và đưa vào hoạt động máy xay bột bằng
hơi nước. Chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền công nghệ chứ không phải
ngược lại. Nhưng quan điểm này cho rằng vẫn có thể giữ được những tiềm
năng về công nghệ và vật chất của nền kinh tế ngay cả sau khi nền tảng
trí thức mà chúng dựa vào đã bị đập tan. Một khi quay lại với truyền
thống và tin vào chính quyền trở thành trạng thái tâm lí giữ thế thượng
phong thì không thể nào làm kinh tế một cách hữu lí được. Không thể nào
tưởng tượng được một doanh nhân - tức là tác nhân mang tính xúc tác của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và đồng thời cũng là tác nhân của nền công
nghệ hiện đại – trong môi trường mà ai ai cũng chỉ muốn sống cuộc đời
thiền định.
Nếu cho rằng chỉ có hệ thống dựa
trên quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất là khả thi còn tất cả các hệ
thống khác đều bất khả thi thì ta phải rút ra kết luận là phải bảo vệ
sở hữu tư nhân, như là cơ sở cho sự hợp tác và liên kết xã hội và phải
kiên quyết đấu tranh với mọi cố gắng nhằm loại bỏ nó. Chính vì lí do đó
mà chủ nghĩa tự do luôn bảo vệ định chế sở hữu tư nhân, chống lại mọi cố
gắng nhằm phá huỷ nó. Vì vậy mà người ta đã hoàn toàn có lí khi gọi
người theo trường phái tự do là người biện hộ cho sở hữu tư nhân vì từ
biện hộ (apologist) có xuất xứ từ một từ Hi Lạp có nghĩa là người bảo vệ
(defender). Dĩ nhiên, tốt hơn hết là nên tránh dùng từ ngoại quốc và
chỉ dùng tiếng Anh thuần tuý. Vì đối với nhiều người thì từ biện hộ
(apology) và kẻ biện hộ (apologist) thường bao hàm ý là bảo vệ điều
không công chính.
Tuy nhiên quan trọng không phải
là bác bỏ những ám chỉ tiêu cực có thể có trong những từ này mà là nhận
thức rằng định chế sở hữu nhân không đòi hỏi phải được bảo vệ, được biện
hộ, được ủng hộ hay giải thích gì hết. Sự tồn tại của xã hội phụ thuộc
vào sở hữu tư nhân và vì con người cần xã hội cho nên muốn tránh làm hại
quyền lợi của chính mình và quyền lợi của những người khác thì họ phải
bám chặt lấy định chế sở hữu tư nhân. Vì xã hội chỉ có thể tiếp tục tồn
tại trên cơ sở sở hữu tư nhân. Người bảo vệ sở hữu tư nhân cũng là người
bảo vệ những mối ràng buộc xã hội, gắn bó nhân loại lại với nhau; bảo
vệ nền văn hoá và văn minh. Đấy cũng là người bảo vệ, người biện hộ của
xã hội, của văn hoá và nền văn minh và vì người đó coi đấy là mục đích
của mình nên anh ta cũng bảo vệ phương tiện duy nhất đưa đến những mục
đích như thế, nói cụ thể hơn thì đấy chính là sở hữu tư nhân.
Bảo vệ quyền sở hữu tư nhân tư
liệu sản xuất hoàn toàn không có nghĩa là bảo rằng chủ nghĩa tư bản dựa
trên sở hữu tư nhân là hệ thống hoàn hảo. Chẳng có gì trên đời là hoàn
hảo hết. Ngay cả trong hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng có thứ này thứ
khác, nhiều thứ, thậm chí mọi thứ đều không phù hợp với khẩu vị với
người này hay người kia. Nhưng đây là hệ thống xã hội khả thi duy nhất.
Người ta có thể bắt tay cải tạo một số đặc điểm của nó, nhưng có thể cải
tạo nếu không động chạm đến bản chất và nền tảng của toàn thể trật tự
xã hội, mà cụ thể là không động đến sở hữu tư nhân. Rút cục lại, chúng
ta đành phải chấp nhận hệ thống này vì đơn giản là không có hệ thống nào
khác.
Trong tự nhiên có thể có nhiều
thứ chúng ta không thích. Nhưng chúng ta không thể thay đổi được bản
chất cố hữu của các hiện tượng tư nhiên. Thí dụ, ta không thể nào tranh
luận được với người nghĩ rằng ăn, tiêu hoá và đưa chất bổ vào cơ thể là
việc đáng tởm – có những người khẳng định như thế. Chỉ có thể nói với
anh ta: Không làm thế thì chết đói. Không có cách thứ ba. Sở hữu cũng
như thế: “hoặc là-hoặc là” - hoặc là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất
hoặc là cảnh đói rét và khốn nạn đối với tất cả mọi người.
Những người phản đối chủ nghĩa
tự do thường gọi học thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do là “lạc quan”.
Họ coi đấy là một lời phê phán hoặc chế giễu phương pháp tư duy của
trường phái tự do.
Nếu dùng từ “lạc quan” để nói
rằng chủ nghĩa tự do coi thế giới tư bản là thế giới tốt nhất có thể có
thì đấy là việc làm hoàn toàn vô nghĩa. Đối với hệ tư tưởng được xây
dựng trên cơ sở hoàn toàn khoa học, như chủ nghĩa tự do, thì những câu
hỏi đại loại như chủ nghĩa tư bản là tốt hay xấu, có thể có hệ thống tốt
hơn hay không, có cần dựa vào cơ sở triết học hay siêu hình học nào đó
để vứt bỏ nó hay không, là những câu hỏi hoàn toàn không thích hợp. Chủ
nghĩa tự do có xuất xứ từ các môn khoa học thuần tuý là kinh tế học và
xã hội học, tức là những môn khoa học không đưa ra những đánh giá chủ
quan và không bàn về cái gì nên, cái gì không nên, cái gì tốt, cái gì
xấu mà ngược lại, chỉ tìm hiểu những sự kiện có thật và cách chúng xuất
hiện mà thôi. Khi những môn khoa học này chỉ cho chúng ta thấy rằng
trong tất cả các phương pháp tổ chức xã hội có thể tưởng tượng được thì
chỉ có một cách, mà cụ thể là hệ thống dựa trên quyền sở hữu tư nhân tư
liệu sản xuất là có thể thực hiện được vì tất cả các hệ thống tổ chức xã
hội khác đều bất khả thi thì đấy hoàn toàn không có bất cứ thứ gì có
thể gọi là “lạc quan” hết. Chủ nghĩa tư bản là khả thi và có thể thực
hiện được - kết luận này không liên quan gì đến chủ nghĩa lạc quan.
Chắc chắn là những người phê
phán chủ nghĩa tự do cho rằng đấy là một xã hội tồi dở. Vì khẳng định
này chứa đứng đánh giá mang tính chủ quan cho nên đương nhiên là không
xứng đáng được đem ra thảo luận, đấy là nói một cuộc thảo luận có ý định
đi xa hơn những đánh giá mang tính chủ quan và vì vậy mà không khoa
học. Nhưng vì lời khẳng định này đặt căn bản trên nhận thức sai lầm về
những hiện tượng diễn ra trong hệ thống tư bản chủ nghĩa cho nên kinh tế
học và xã hội học có thể uốn nắn được. Nhưng đây cũng không phải là chủ
nghĩa lạc quan. Dù có rất nhiều vấn đề, dù hệ thống tư bản chủ nghĩa có
rất nhiều khuyết tật thì điều đó cũng chẳng có giá trị gì trước những
vấn đề chính sách xã hội nếu người ta không chứng minh được rằng hệ
thống xã hội khác không những tốt hơn, mà quan trọng nhất là có thể thực
hiện được. Nhưng không ai làm được điều đó. Khoa học đã chứng minh được
rằng tất cả những hệ thống xã hội thay thế cho hệ thống tư bản chủ
nghĩa mà ta có thể tưởng tượng được đều chứa trong lòng nó những mâu
thuẫn nội tại và không có tương lai cho nên không thể đưa đến những kết
quả mà những người ủng hộ chúng kì vọng.
Chẳng có mấy lí do để nói đến
“chủ nghĩa lạc quan” hay “chủ nghĩa bi quan” trong chuyện này hết và
việc gắn nhãn hiệu “lạc quan” lên chủ nghĩa tự do chỉ nhằm mục đích làm
cho nó bị mang tiếng oan bằng cách đưa ra những nhận định cảm tính,
thiếu khoa học. Người ta cũng có thể gọi những người tin vào khả năng
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hoặc chủ nghĩa can thiệp là “lạc
quan” với cùng lí do như thế. Đa số những người cầm bút viết về các vấn
đề kinh tế đều không bỏ lỡ dịp tung lên đầu lên cổ hệ thống tư bản chủ
nghĩa những lời xỉ vả vô nghĩa và trẻ con và ca ngợi hết lời chủ nghĩa
xã hội hay chủ nghĩa can thiệp, thậm chí cả chủ nghĩa xã hội nông nghiệp
hay chủ nghĩa công đoàn, coi đấy là những định chế tuyệt đích nữa. Mặt
khác, có rất ít người cầm bút ca tụng hệ thống tư bản, dù chỉ bằng những
lời lẽ nhẹ nhàng hơn nhiều. Nếu muốn, người ta có thể gọi những người
cầm bút đó là “lạc quan”. Nhưng nếu làm như thế thì người ta còn có hàng
ngàn lí do để gọi những người cầm bút theo trường phái bài tự do là
“siêu lạc quan” về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa can thiệp, chủ nghĩa xã
hội nông nghiệp và chủ nghĩa công đoàn nữa. Nhưng điều đó đã không xảy
ra và sự kiện là người ta chỉ gọi những người như Bastiat là “lạc quan”
chứng tỏ rằng đây không phải là sự phân loại mang tính khoa học mà chỉ
là sự chế giễu mang tính phe phái mà thôi.
Xin nhắc lại, chủ nghĩa tự do
không khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản là tốt, nếu nhìn từ một quan điểm
cụ thể nào đó. Chủ nghĩa tự do chỉ nói rằng chỉ có hệ thống tư bản mới
dẫn người ta đến những mục tiêu mà người ta đang nghĩ trong đầu, và tất
cả những cố gắng nhằm hiện thực hoá chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa can
thiệp, chủ nghĩa xã hội nông nghiệp, xã hội theo lối công đoàn, chắc
chắn đều chỉ dẫn đến thất bại. Những người nóng nảy, không thể chấp nhận
được sự thật này, thường gọi kinh tế học là khoa học tăm tối. Nhưng
kinh tế học và xã hội học là những môn khoa học chỉ cho chúng ta thấy
hiện thực như nó vốn là, chúng không hể tăm tối hơn các môn khoa học
khác, thí dụ như môn cơ khí, là môn chỉ chứng minh cho chúng ta thấy
rằng không thể có động cơ vĩnh cửu hay môn sinh vật, là môn dạy chúng ta
biết rằng mọi sinh vật đều sẽ chết.
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét