- Heterosexuals (Dị tính) tìm kiếm mối quan hệ tình cảm-tình dục với thành viên thuộc giới tính khác
- Homosexuals (Đồng tính) tìm kiếm mối quan hệ tình cảm-tình dục với thành viên thuộc cùng một giới tính; trong đó gay miêu tả đồng tính nam, lesbian miêu tả đồng tính nữ.
- Bisexuals (Song tính) tìm kiếm mối quan hệ tình cảm-tình dục với thành viên thuộc cả hai giới tính.
Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014
Lý giải các hiện tượng lệch lạc giới tính
17:00
Hoàng Phong Nhã
No comments
Vì sao lại có những người bị Dị tính (Heterosexuals), Đồng tính (Homosexuals) và Song tính (Bisexuals)?
Sự ủng hộ dành cho hôn nhân đồng giới
của Tổng thống Hoa Kì Obama một lần nữa dấy lên tranh cãi về vấn đề quan
hệ đồng tính trên toàn thế giới. Bài viết về chủ đề định hướng giới
tính của VIET Psychology sẽ cung cấp kiến thức khoa học về vấn đề này.
Định hướng giới tính, hay còn gọi là thiên hướng tình dục (sexual orientation)
miêu tả sự chọn lựa của một người về quan hệ tình cảm và tình dục với
người khác cùng giới hoặc khác giới. Cần nhấn mạnh sự định hướng này là
lựa chọn tự nguyện. Định hướng giới tính là một khái niệm phức tạp và
bao gồm nhiều hướng khác nhau. Bài viết tập trung vào những hướng lớn
sau:
Cụm từ LGBT là tên gọi miêu tả chung nhóm Lesbian, Gay, Bisexual và Transgender.
Trong những năm gần đây, thuật ngữ gay được dùng để chỉ chung những
người đồng tính, straight chỉ chung những người dị tính. Nhiều người cho
rằng đồng tính và dị tính là hai nhóm riêng biệt: bạn chỉ có thể thuộc
về một trong hai mà thôi. Thế nhưng thực tế đã có nhiều người dị tính đã
trải nghiệm mối quan hệ đồng tính và ngược lại. Vì vậy, đồng tính và dị tính được xem là hai cực điểm trên thang giới tính. Alfred Kinsey đã phát triển một thước đo gồm 7 điểm nhằm miêu tả định hướng giới tính như sau:
Rất khó để thu thập dữ liệu phân loại
dân số trên thang đo này vì nhiều lí do. Nhiều người đồng tính vẫn còn e
ngại trong việc để tiết lộ định hướng giới tính thật của mình. Phức tạp
hơn, có những người đã lập gia đình với người khác giới nhưng vẫn duy
trì mối quan hệ đồng giới với bạn tình. Trong cuộc đời, chúng ta hoàn
toàn có thể thay đổi định hướng giới tính một cách linh hoạt theo thang
đánh giá của Kinsey. Vì thế, nghiên cứu về định hướng giới tính đòi hỏi
cách tiếp cận phức tạp và linh hoạt. Một nghiên cứu vào năm 1991 cho
biết có khoảng 5-8% dân số Mỹ là người đồng tính.
Yếu tố sinh lý
Nhiều người đồng tính có thể nhớ lại
những cảm xúc đồng tính từ thời thơ ấu, nhiều giả thuyết cho rằng các
yếu tố sinh học như hóc-môn tiết ra vào thời kì tiền sinh sản hoặc ở
giai đoạn trưởng thành có vai trò định hướng giới tính. Ví dụ, tiếp xúc
với lượng cao androgens (hóc-môn nam) vào thời kì trước khi sinh có thể
dẫn đến sự nam tính hoá sau này trong định hướng giới tính.
Ngoài ra, yếu tố gen cũng nhận được
nhiều sự quan tâm. Nghiên cứu trên đồng tính nam hoặc song tính
(bisexual) cho thấy họ có 52% anh em sinh đôi cùng trứng hoặc 22% anh em
sinh đôi khác trứng hoặc 11% anh em nuôi cũng là người đồng tính hoặc
song tính. Các nghiên cứu khác trên đồng tính nữ cũng cho kết quả khá
tương tự.
Nghiên cứu của Bogaert và Blanchard tìm
ra điểm thú vị: Bé nam càng có nhiều anh trai thì có xu hướng đồng tính
càng cao khi lớn lên – Hiệu ứng anh trai (Fraternal birth-order effect).
Blanchard lí giải cho hiệu ứng này bằng phản ứng miễn dịch trong môi
trường bào thai của người mẹ, trong đó kháng nguyên H-Y sản xuất ra từ
bào thai nam tăng dần sau mỗi lần người mẹ mang thai và có ảnh hưởng tới
quá trình hình thành não của bào thai nam sau đó. Số liệu ủng hộ cho
giả thuyết này cho thấy đồng tính nam thường có nhiều anh trai hơn dị
tính nam, và cứ có thêm một người anh trai làm tăng khả năng một người
đồng tính khoảng 33%. Điều này không thấy được ở đồng tính nữ, và càng
khẳng định vai trò của kháng nguyên H-Y chỉ có ở nam giới. Như vậy, gen
cũng có thể có mối liên hệ với định hướng đồng tính.
Yếu tố môi trường
Nhiều nhà nghiên cứu lí giải mối quan hệ
trong gia đình có nhiều anh trai là nguồn gốc của định hướng đồng tính.
Freud cho rằng đồng tính bắt nguồn từ mặc cảm Oedipus (Oedipus complex
– Oedipus là tên một anh hùng trong thần thoại Hy Lạp giết cha và cưới
mẹ). Theo giả thuyết này, thay vì nhận diện bản thân với bố hoặc mẹ cùng
giới, đứa trẻ nhận diện với bố hoặc mẹ khác giới.
Các nhà giáo dục cho rằng đồng tính xuất
phát từ những kinh nghiệm tiêu cực với người dị tính (straight) và tích
cực với người đồng tính (gay) từ nhỏ. Cùng quan điểm, các nhà xã hội
học cho rằng đồng tính phát triển từ những mối quan hệ không tốt với bạn
bè cùng giới. Một trường hợp là khi đứa trẻ bị chọc ghẹo là đồng tính,
điều này dẫn đến việc đứa trẻ phát triển những hành vi đi theo tên gọi
đó (self-fulfilling prophecy). Những lí giải này đều không có chứng cứ mạnh mẽ.
Tương tự, chưa ai chứng minh được định
hướng giới tính của bố mẹ liên quan đến định hướng giới tính của đứa
trẻ. Những ông bố bà mẹ dị tính (straight) vẫn có khả năng sinh ra những
đứa trẻ đồng tính hoặc dị tính như những ôn bố bà mẹ đồng tính. Đa số
những đứa trẻ lớn lên từ gia đình đồng tính nam hoặc đồng tính nữ vẫn có
định hướng dị tính (straight).
Các nhà nghiên cứu phát hiện hành vi nữ
tính ở trẻ em nam và hành vi nam tính ở trẻ em nữ có tương quan với định
hướng đồng tính sau này. Nhiều người đồng tính nói rằng họ có thể nhớ
lại trải nghiệm đồng tính từ lúc rất bé. Mối liên hệ này mạnh hơn ở đồng
tính nam hơn đồng tính nữ, hợp lý với nhận định rằng định hướng giới
tính nữ dễ biến chuyển hơn là nam.
Nghiên cứu của Bem trên 1000 người đồng tính và 300 người dị tính đã dẫn đến Học thuyết Kì lạ Hấp dẫn (Exotic Becomes Erotic).
Theo học thuyết này, một người từ thời thơ ấu và thanh thiếu niên cảm
thấy hấp dẫn về tình cảm và tình dục với người mà họ cảm thấy khác lạ so
với bản thân. Yếu tố sinh học như gen và hóc-môn có thể không trực tiếp
làm một người trở thành đồng tính hay dị tính nhưng chúng ảnh hưởng đến
tính cách của đứa trẻ và khi lớn lên, những đứa trẻ này thể hiện những
hành vi hoặc sở thích phù hợp với tính cách của mình tuy những tính cách
này trái ngược với định hướng giới tính truyền thống. Ví dụ, một bé gái
có thể ham thích những hoạt động thể thao mạnh mẽ vốn thường dành cho
bé trai, và khi lớn lên cảm thấy khác biệt so với những bạn nữ cùng
giới, cô ta có thể lại cảm thấy hấp dẫn bởi phái nữ hơn là phái nam.
Định hướng giới tính là vô cùng
phức tạp, không phải là kết quả của bất kỳ yếu tố riêng lẽ nào mà là kết
quả từ sự kết hợp giữa nhiều yếu tố môi trường và sinh học.
Giai đoạn phát triển nhận biết định hướng giới tính bao gồm sự thừa
nhận, nhận diện và tự liệt mình vào loại giới tính thích hợp; khái niệm
hoá nó bằng những thuật ngữ tích cực; và công khai giới tính thật cho
trước người khác. So với thời trước thì xã hội ngày càng chấp nhận nhiều
người công khai định hướng giới tính từ sớm. Thuật ngữ chỉ việc người
đồng tính công khai giới tính thật của mình là “come out of the closet”,
hay nói ngắn gọn là “come out”.
NGOC T (VIETPSY.COM)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét