Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014
Tìm hiểu chủ nghĩa thực chứng trong triết học
22:07
Hoàng Phong Nhã
No comments
Các triết gia thuộc trào lưu chủ
nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết học theo mô hình "các khoa
học thực chứng". Theo họ, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề
như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, v..v mà đi tìm
phương pháp khoa học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội
dung chủ yếu của việc nghiên cứu triết học.
Trong các trường phái theo chủ nghĩa duy khoa học, trường phái có ảnh hưởng lớn và lâu nhất là chủ nghĩa thực chứng (Positivism).
Các nhà triết học thực chứng cho rằng,
chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là "cái thực chứng", do đó họ
không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng, không thừa nhận bản chất
của sự vật, họ muốn lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học, muốn loại
trừ vấn đề thế giới quan ra khỏi triết học truyền thống. Auguste Comte
cho rằng, triết học phải lấy các sự vật "thực chứng", "xác thực" làm căn
cứ.
Chủ nghĩa thực chứng ra đời
từ thế kỷ XIX. Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên ở thế kỷ
XX, nhất là sự ra đời hình học phi Euclite, thuyết tương đối, cơ học
lượng tử, phương thức tư duy truyền thống đã bị tác động rất mạnh. Các
phương pháp toán học, phương pháp logic toán trở thành phương pháp đặc
biệt quan trọng trong khoa học tự nhiên. Tuyệt đối hóa điều đó, một số
nhà triết học đã cho rằng, chính việc nghiên cứu các phương pháp đó mới
là nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của triết học. Thậm chí có nhà triết học
còn cho rằng, việc toán học hóa, logic học hóa triết học mới là lối
thoát của triết học hiện đại.
Trong các nhà triết học chủ trương logic
học hóa triết học có một số người nhấn mạnh việc phân tích ngôn ngữ.
Trường phái coi việc phân tích logic ngôn ngữ là nội dung trung tâm của
triết học được gọi là chủ nghĩa thực chứng mới, hoặc triết học phân
tích.
Triết học phân tích được hình thành vào
đầu thế kỷ XX. Trong số các nhà sáng lập thì Bertrand Russell và Ludwig
Wittgenstein là hai người có ảnh hưởng lớn. Rớtxơn coi nhiệm vụ phân
tích hình thức và phân tích logic là nội dung chủ yếu của triết học. Ông
chủ trương lấy logic toán - lý hiện đại làm cơ sở sáng tạo ra ngôn ngữ
nhân tạo để đảm bảo sự nhất trí giữa cấu trúc cú pháp của mệnh đề và
hình thức logic của nó.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, trong
triết học phân tích đã xuất hiện một chi phái lớn: Chủ nghĩa kinh nghiệm
logic, hoặc còn gọi là chủ nghĩa thực chứng logic.
Chủ nghĩa thực chứng logic
sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là của logic toán lý từ
đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh đề có
thể dùng logic toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm
vụ tiến hành sự phân tích kết cấu logic đối với tất cả mọi mệnh đề khoa
học dựa trên các tài liệu thực chứng (kinh nghiệm).
Trước và sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, trong triết học phân tích đã xuất hiện phái ngôn ngữ học thường
ngày. Các đại biểu của phái này đều là các giáo sư trường Đại học Oxford
cho nên trường phái đó cũng được gọi là trường phái Oxford. Những người
theo chủ nghĩa thực chứng logic thường phê phán các khái niệm
của ngôn ngữ tự nhiên là mơ hồ, không rõ ràng, nên không phù hợp với tư
duy chính xác. Trái lại, trường phái ngôn ngữ lại nhấn mạnh tính phong
phú của khái niệm và sự phân biệt tỉ mỉ giữa các khái niệm trong ngôn
ngữ tự nhiên. Nếu chủ nghĩa thực chứng logic quy nhiệm
vụ triết học thành sự phân tích logic, thì trường phái ngôn ngữ luôn
luôn quy triết học thành sự phân tích ngôn ngữ tự nhiên, cả hai đều phủ
định ý nghĩa thế giới quan của triết học.
Các trường phái triết học khoa học có
ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây, bao gồm các đại biểu như Karl
Popper, Thomas Kuhn và Imre Lacatos, v.v.. Học thuyết, quan điểm của họ
không giống hệt nhau, nhưng cái giống nhau ở họ là đều phản đối chủ
nghĩa thực chứng logic, vì chủ nghĩa thực chứng logic chỉ tiến
hành phân tích logic ở trạng thái tĩnh đối với lý luận khoa học, không
quan tâm nghiên cứu sự phát triển của tri thức khoa học, cho rằng các
tri thức khoa học chỉ tích luỹ về lượng. Họ cho rằng khoa học tiến bộ
thông qua con đường cách mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự
phân tích lịch sử khoa học theo trạng thái động, thông qua giải quyết
mâu thuẫn.
Popper phủ định phép quy nạp, nhấn mạnh
rằng khoa học bắt đầu từ vấn đề chứ không phải bắt nguồn từ việc quan
sát, thực nghiệm. Ông nhận định rằng, phương pháp khoa học không phải là
chứng thực trực tiếp mà là chứng thực bằng sự giả hóa, tức là phê phán
sai lầm của nó. Ông đưa ra nguyên tắc giả hóa của lý luận khoa học để
bác bỏ nguyên tắc về tính có thể chứng thực trực tiếp được của chủ nghĩa thực chứng logic.
Theo ông thì sự phát triển của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả
thuyết có tính quy ước, tiếp đó dùng thực nghiệm để kiểm nghiệm, cố gắng
chứng thực nó bằng sự giả hóa, sau đó lại xuất hiện vấn đề mới. Như vậy
khoa học phát triển theo phương thức "cách mạng không ngừng".
Kuhn dùng thuyết các giai đoạn phát
triển của khoa học để thay thế cho thuyết "cách mạng không ngừng" của sự
tăng trưởng tri thức khoa học. Ông chia sự phát triển khoa học thành
hai thời kỳ, thời kỳ phát triển bình thường và thời kỳ cách mạng. Theo
ông, ngay trong thời kỳ phát triển bình thường của khoa học đã xuất hiện
những hiện tượng trái với bình thường. Việc tích luỹ các hiện tượng
trái với bình thường, đến một chừng mực nào đó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng
trong khoa học, do đó tạo ra cuộc cách mạng khoa học.
Lacatos, trên cơ sở tổng hợp các quan
điểm của Popper và Kuhn đã nêu lên phương pháp luận "cương lĩnh nghiên
cứu khoa học", trả lời rõ câu hỏi thế nào là một khoa học, thế nào là
tính hợp lý trong sự phát triển của khoa học.
Chúng ta đều biết, trong xã hội tư sản
hiện đại, một mặt đang tồn tại cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng, nhưng
mặt khác, khoa học tự nhiên lại có sự tiến bộ to lớn. Đứng trước mâu
thuẫn đó, một số nhà triết học cảm thấy bó tay không có cách gì giải
quyết. Về mặt lý luận, họ chán ghét loại triết học thuần túy tư biện,
cho rằng loại triết học này căn bản không thể góp phần giải quyết những
vấn đề xã hội đặt ra. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
tự nhiên lại đưa đến cho họ niềm hy vọng và chỗ dựa tinh thần mới. Vì
vậy, họ chuyển hướng nghiên cứu triết học từ phương diện thế giới quan
sang phương diện phương pháp luận của khoa học. Một loạt trường phái và
phong trào được gọi là chủ nghĩa duy khoa học đã ra đời trong hoàn cảnh
đó.
Ngoài bối cảnh xã hội, còn một nguyên
nhân nữa xuất phát từ đặc điểm của khoa học tự nhiên hiện đại. Sự phát
triển nhanh chóng của nhiều môn khoa học mới, sự phân công trong nội bộ
khoa học ngày càng tỷ mỷ hơn, sự ứng dụng rộng rãi toán học và logic
toán, việc khoa học ngày càng đi sâu hơn vào kết cấu vật chất, vai trò
của mô hình và kết cấu lý luận tăng lên, v.v.. Tất cả những điều đó đòi
hỏi các môn khoa học thực chứng không những phải nghiên cứu những nội
dung cụ thể mà còn phải nghiên cứu những vấn đề chung của khoa học, đặc
biệt là vấn đề phương pháp luận nhận thức của khoa học. Chủ nghĩa duy
khoa học dựa vào yêu cầu mới đó trong khoa học tự nhiên hiện đại để đưa
ra các quan điểm triết học thực chứng của mình.
Chủ nghĩa duy khoa học
đã có công đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành quả trong toán học
và trong các khoa học tự nhiên hiện đại, nêu ra nhiều vấn đề mới cho
triết học, mở ra nhiều hướng mới cho sự phát triển triết học duy vật và
phép biện chứng. Trong đó, có thể nói những nhân tố tích cực, triết học
Mác có thể tiếp thu và sử dụng. Tất nhiên, trào lưu triết học này có một
mâu thuẫn, do đó cũng là sai lầm không thể khắc phục được: do muốn phá
vỡ một số công thức của triết học truyền thống, nên đã cực đoan phủ nhận
ý nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận bản thân triết
học. Mặc dù những nhà triết học sau Popper và Kuhn đã chú ý đến ý nghĩa
thế giới quan của triết học đối với khoa học, nhưng do thiếu quan điểm
duy vật lịch sử nên họ không có cách nào thoát khỏi tính hạn chế đó. Vì
vậy chủ nghĩa duy khoa học không thể mở ra một con đường mới thực sự đúng đắn cho sự phát triển của triết học.
S.T
0 nhận xét:
Đăng nhận xét