Nhân loại ngày nay đã bước vào
thiên niên kỷ mới, một kỷ nguyên toàn cầu hóa về công nghệ thông tin,
nền văn minh cơ khí nhân loại phát triển tột bậc, cuộc sống vật chất đạt
đến đỉnh cao. Nhưng ai cũng thấy rõ hiện nay con người đang đối mặt với
nhiều khủng hoảng lớn; chiến tranh có qui mô rộng lớn hơn, mức độ khốc
liệt hơn, có khả năng tiêu diệt cả hành tinh này; môi trường sống gồm
đất, nước, không khí đang bị ô nhiễm trầm trọng, tài nguyên thiên nhiên
bị cạn kiệt phần lớn phục vụ cho những tham vọng của con người. Hậu quả
là những thiên tai, hoả hoạn, lũ lụt, dịch bệnh gia tăng, hành hạ và
giết hại rất nhiều người. Tệ hại hơn, sự suy thoái đạo đức làm phát sanh
chiến tranh bạo lực, cướp giật, lừa đảo, ma tuý, mại dâm, làm lũng đoạn
gia đình và xã hội... Con người chống đối nhau do tham lam ích kỷ, hẹp
hòi, danh lợi, địa vị, quyền thế, biến thế giới này càng ngày càng trở
nên bất ổn thống khổ triền miên.
Trước tình hình này, các nhà tư tưởng,
khoa học gia đã và đang từng bước tìm kiếm các giải pháp nhằm xây dựng
hòa bình thế giới và củng cố đạo đức cho nhân loại. Những kết quả đạt
được chỉ giải quyết được phần ngọn của chúng chứ không giải quyết được
tận gốc rễ của chúng. Trong khi Phật giáo đặt nền tảng xây dựng nhân
cách đạo đức con người trên cái nhìn duyên sinh vô ngã một cách rốt ráo
thì, nhưng chưa được triển khai rộng rãi trên khắp toàn cầu.
Cái nhìn duyên sinh vô ngã của Phật giáo
phải được nhìn như thật chính nó trong quá trình sinh khởi và biến dịch
của các pháp qua tư duy chắc lọc trong quá trình thành-trụ-hoại-không.
Tư duy chính là hiện thân của tác nhân hành động. Chánh tư duy đem đến
an lạc hạnh phúc; tà tư duy sinh khởi tà nghiệp gây ra các rối loạn và
khủng hoảng trong tâm thức con người và xã hội. Các rối loạn khủng hoảng
ấy lại dấy lên mãi... khiến việc tìm kiếm giải pháp ngày càng trở nên
khó khăn hơn.
Đạo Phật cho rằng, với nỗ lực lớn con
người có thể giải quyết tất cả, bằng cách thay chuyển hướng tư duy, thay
đổi tư duy, thay đổi cái nhìn thì các vấn đề khủng hoảng của thời đại
cũng được giải quyết.
1. Vấn đề tư duy
Từ xưa, tư duy được xem là thước đo của
hiện hữu, nó ban phát giá trị cho mọi sự vật. Nó được sử dụng như là
phương tiện chủ yếu để tìm kiếm chân lý và hạnh phúc.
Nhưng chính nó đã tạo cho sự vật một tự
ngã tưởng tượng, trong khi sự vật thật sự không có tự ngã. Từ đây, tư
duy con người tạo ra một thế giới giá trị tưởng tượng đầy dẫy các mâu
thuẫn và rối loạn. Càng đi sâu vào thế giới giá trị tưởng tượng ấy, con
người càng chìm trong bóng tối của tư duy gọi “khủng hoảng tư duy”.
Với cái nhìn tư duy hữu ngã, con người
thấy sự vật có một ngã tính thường hằng và chấp thủ nó. Nhìn thấy như
vậy gọi là “điên đảo kiến” che mờ tâm thức khiến không nhìn thấy được
thực tại tự thân. Cho nên con đường giải quyết khủng hoảng tư duy là đi
ra khỏi “điên đảo kiến” hay đi vào “chánh kiến” thấy rõ sự thật Duyên
sanh vô ngã có mặt khắp vạn hữu. Thấy vậy, con người sẽ nhận ra rằng: Tư
duy hữu ngã là trống rỗng, dục vọng là do tư duy hữu ngã mà khởi, thế
giới các ngã tưởng, là trống không và tham-sân-si liên quan tới thế giới
đó cũng rỗng không, con người được giải thoát khỏi trói buộc của chúng.
Không có gì bí mật ở trong dục vọng, trong khổ đau hay hạnh phúc của
con người... ngoại trừ cái nhìn của tư duy hữu ngã, dập tắt tư duy hữu
ngã là dập tắt khủng hoảng tư duy.
2. Vấn đề dục vọng
Cái nhìn tư duy hữu ngã còn gây ra một
cuộc khủng hoảng khác; từ tư duy, dục vọng dấy khởi và gây rối loạn cho
tâm thức con người. Con người hiện diện ở đời như một người khát nước ở
ngoài khơi uống nước mặn. Càng uống thì càng khát, càng khát thì càng
uống. Cũng như con người, ham muốn các cảm giác và sự vật không phải là
biện pháp giải đáp cho nỗi khổ đau. Đây gọi là khủng hoảng dục vọng hay
“điên đảo tâm”. Rơi vào điên đảo tâm, con người thường không còn sự lựa
chọn nào khác hơn là tiếp tục ham muốn, ham muốn tăng trưởng mạnh đến độ
nó nhìn thấy như là thực nghĩa của sự sống, do đó không nhìn thấy được
lối ra. Cái “nhìn” như thật của Duyên sinh vô ngã, kinh qua Tứ thánh đế
và Thập nhị nhân duyên của đạo Phật nói lên một sự thật: “Dục vọng là
nguyên nhân của khổ đau”, và con đường thoát ly khổ đau là con đường
chấm dứt dục vọng.
Nếu con người hiểu được sự vận hành của
năm thủ uẩn trong nguyên nhân đưa đến khổ đau thì sẽ cùng lúc hiểu được
sự thật của dục vọng dù là ham muốn bất cứ điều gì và nhận ra rằng: chủ
thể của dục vọng là cái gì trống rỗng, vô thường, đối tượng của dục vọng
cũng là cái gì trống rỗng, vô thường, như vậy sự ham muốn các hiện hữu
chỉ có ý nghĩa là: một sự trống rỗng ham muốn một sự trống rỗng, hay vô
thường ham muốn vô thường; điều này chẳng dính dáng gì đến con người.
Hiểu như vậy thì con người hiểu rõ dục vọng là gì và thấy rõ được con
đường thoát ly khỏi các trói buộc của dục vọng. Như vậy, nếu vô ngã vận
hành thì khủng hoảng dục vọng đi đến chấm dứt.
3. Vấn đề con tim
Cái nhìn tư duy hữu ngã có chiều hướng gán cho mỗi hiện hữu một ngã tính thường hằng.
Theo Khổng học, tình yêu dành cho cha mẹ
gọi là Hiếu và định nghĩa hiếu là các bổn phận mà mỗi người con trai
con gái phải chu tất đối với cha mẹ. Nếu các bổn phận ấy không được
người con thể hiện thì người con sẽ không được xứng đáng làm người.
Tình yêu dành cho xứ sở gọi là Trung và
định nghĩa Trung là các bổn phận người công dân phải làm cho quê hương,
xứ sở hay vị quốc vương của mình. Nếu người công dân không thi hành các
bổn phận ấy thì không xứng đáng hiện hữu ở trên đời.
Tình yêu dành cho người yêu gọi là Tình
và định nghĩa tình là mối liên hệ tình cảm thân thiết đòi hỏi chồng (vợ)
có bổn phận lo cho nhau. Nếu người chồng hay vợ không chung thuỷ với
người yêu bởi bất cứ lý do nào thì người chồng hay vợ là người có lỗi,
không xứng đáng ở đời.
Thế nhưng, đời người phức tạp, thường
hay gặp phải cảnh nghiệt ngã không thể nào làm tròn bổn phận của mình
đối với cha mẹ, với quê hương xứ sở hoặc đối với vợ (chồng), trong tình
huống ấy con người sẽ bất trung bất hiếu hay bạc tình. Và đau khổ gần
như tuyệt vọng khi phải chọn lựa:
“Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”(Nguyễn Du-Truyện Kiều)
Ở đây không có một chọn lựa nào tốt đẹp, bởi vì sự chọn lựa nào cũng đầy khổ đau và nước mắt.
Theo cái nhìn vô ngã, hiếu-trung-tình là
do duyên mà sinh. Là vô ngã tính, chúng cần định nghĩa lại trong một ý
nghĩa cởi mở thế nào để thể hiện tính nhân bản, hữu ích cho cá nhân và
hạnh phúc như một con người.
4. Vấn đề tình cảm
Vấn đề con tim nói trên là do các lý do ở
bên ngoài con người gây ra. Còn có một phương diện khác của vấn đề con
tim do các nguyên nhân nội tại của người tạo ra đó là vấn đề tình
cảm-cảm xúc, do thói quen của tình cảm gọi là khủng hoảng tình cảm. Nó
vận hành qua nhiều mặt.
Văn hoá đương thời do cái nhìn tư duy
hữu ngã tạo nên, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm thức con người tư duy, cảm
giác, cảm thọ... văn hoá trở nên thân thiết với con người đến mức nó
được xem là thực tại. Do cái nhìn này mà các phản ứng tâm lý và các tánh
hạnh của con người khởi lên: hưởng thụ chúng chăng? ngay cả khi con
người nhận ra nó là sai lầm, hay đau khổ và đã nhận ra rõ ràng có con
đường sống tốt đẹp hơn do cái nhìn tư duy vô ngã dẫn đạo. Sự kiện này
gọi là “điên đảo tình” hay khủng hoảng tình cảm.
Các giá trị do nền văn hoá ấy tạo nên
gần gũi với con người dù thường đem đến cho con người nước mắt do các
giá trị điên đảo của chúng, nhưng con người vẫn thích hiện hữu với chúng
hơn là các giá trị mới.
Con đường giáo dục cũ là bất toàn, nhưng
rất khó cho con người nghĩ đến một hướng giáo dục mới để thực hiện con
đường mới. Sự việc này xảy ra cũng do điên đảo tình của con người.
Một con người ngoài tôn giáo, khi họ
nhận ra sự thật của đời sống khác hẳn với những gì họ tin tưởng, họ vẫn
không thể nào rời khỏi niềm tin cũ để đến với sự thật, đây cũng gọi là
điên đảo tình.
Hiện tượng điên đảo tình có vẻ đơn giản
nhưng thật là một sự ngăn che tâm thức đầy nguy hiểm. Muốn nhìn thấy rõ
sự thật, đòi hỏi con người phải thực hành lặp đi lặp lại nhiều lần cái
nhìn trí tuệ, để có một niềm cảm xúc mới thay cho tập quán tình cảm cũ.
5. Vấn đề đạo đức
Đạo đức hay luân lý là một giá trị sống
do cái nhìn tư duy hữu ngã tạo ra. Được hiểu như là “những điều nên làm”
và “những điều không nên làm” cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã
hội. Nó vốn là sản phẩm tư duy của con người. Nên khi có mặt khủng hoảng
tư duy thì liền có mặt khủng hoảng đạo đức, khủng hoảng con tim cũng là
cái gì của đạo đức, một cái gì liên hệ với đạo đức, khi khủng hoảng con
tim xuất hiện thì khủng hoảng đạo đức xuất hiện. Mặt khác xã hội con
người, đạo đức được hiểu là mối quan hệ giữa con người với con người
trong xã hội, khi kinh tế phát triển nhanh, mối quan hệ ấy phải thay đổi
ngoài ý muốn của con người. Tương tự một chính sách hay một thể chế
chính trị thay đổi, mối quan hệ kia không thể duy trì theo lối cũ, gây
ra sự khủng hoảng đạo đức hay luân lý.
Nếu con người thật sự sống theo những
lời dạy của đức Phật về tam vô lậu Giới-Định-Tuệ và xem giới như là đạo
đức ở đời thì sẽ không bao giờ có khủng hoảng đạo đức dù cuộc đời có đổi
thay. Giới là nếp sống không mang một lý thuyết nào, nó không có ý
nghĩa nào về bất kỳ tôn giáo nào, nên nó có thể áp dụng vào đời sống mà
không có bất kỳ sự kỳ thị nào.
6. Vấn đề môi sinh
Vấn đề môi sinh là vấn đề nóng bỏng mà
nhân loại đang rất quan tâm. Khủng hoảng môi sinh là sự ô nhiễm môi sinh
do các phóng xạ, sự phân hạch, bụi bặm thiên nhiên tài nguyên thiên
nhiên bị cạn kiệt, nạn ô nhiễm không khí, nước và đất. Như đã được các
sách báo... ghi lại, do các thử nghiệm bom nguyên tử, vũ khí hoá học,
các khí độc thoát ra từ các nhà máy công nghiệp, nạn gia tăng dân số,
nạn săn bắt phá rừng, dẫn đến thiên tai hoả hoạn, hạn hán, lũ lụt, dịch
bệnh lan tràn... Đây là hậu quả của việc phát triển nhanh công nghệ, như
đã nói nó cũng là hậu quả của sự tận diệt của loài người trong tương
lai gần. Như vậy, bảo vệ môi sinh cần được thực hiện triệt để càng sớm
càng tốt. Một triết lý giáo dục môi sinh cần được phát triển và phổ biến
sâu rộng đến con người và thiên nhiên qua lăng kính duyên sinh và năm
thủ uẩn vô ngã, để từ đó con người có thể tự nguyện bảo vệ môi sinh.
Giải thích các hiểm họa do ô nhiễm môi sinh gây ra cho con người. Chỉ rõ
rằng ham muốn của con người về sự lợi lộc vật chất của cải và uy quyền
bắt nguồn từ tà tư duy chỉ gây ra khổ đau cho nhân loại.
7. Vấn đề giáo dục
Tất cả các vấn đề khủng hoảng trên có
mặt là do sự có mặt của nguyên nhân gọi là khủng hoảng giáo dục. Nếu
giáo dục không được xây dựng trên cơ sở đúng đắn do cái nhìn trí tuệ, nó
sẽ đi lệch hướng về việc truyền đạt các kiến thức trống rỗng và các
điều giáo dục không phù hợp cho người và mang lại khổ đau cho cuộc đời.
Do vì bị chế ngự đóng khung bởi cái nhìn tư duy hữu ngã và các tưởng
tượng để sống, mà không phải là thực tại chính nó. Con người có thể mong
chờ những gì từ thế giới ấy nếu không phải là một bi quan thất vọng
định mệnh! đi cùng với tham, sân, si, hận thù..., nếu không phải là sự
xây dựng trên hành tinh này một thị trường vật chất khổng lồ, một thị
trường vũ khí đầu độc giết người hàng loạt... chỉ mang lại cho nhân loại
sự tàn hại và sợ hãi khổ đau.
Nếu giáo dục đặt cơ sở trên cái nhìn tư
duy vô ngã, xem con người là một hiện hữu duyên sinh hay năm thủ uẩn mà
không phải là một thật thể, thì giáo dục sẽ tìm ra một đường hướng đúng
đắn cho việc “dạy con người những gì và dạy như thế nào?” Bây giờ vai
trò của thế giới, và loại trừ hết thảy nguyên nhân của phiền não khổ đau
để được hạnh phúc trong hiện tại và tại đây.
Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, cái
nhìn tư duy hữu ngã, của nhị nguyên tính đã và đang chế ngự văn hoá nhân
loại trên trái đất hơn hai mươi lăm thế kỷ, khổ đau của
sanh-già-bệnh-chết do tham ái chấp thủ của con người gây ra vẫn còn
nguyên, ở đó các xung đột mâu thuẫn đấu tranh, thất vọng, tàn hại và sợ
hãi của con người ngày càng gia tăng mà không có lối thoát. Nhân loại
còn mong gì ở nền văn hoá ấy. Những lời Đức Phật dạy như khơi mở một cái
nhìn duyên sinh vô ngã vốn khác hẳn quan điểm của tôn giáo và triết lý
khác. Không nhìn con người hay thế giới là một thực thể có bản chất
thường hằng, mà là một hiện hữu do năng duyên và sở duyên, có khả năng
đem đến cho nhân loại hạnh phúc trong hiện tại và rất hữu ích nếu cái
nhìn ấy được đem áp dụng trong đời sống thực. Sau cùng cái nhìn tư duy
vô ngã là thước đo giá trị đặt trên nền tảng hạnh phúc của cá nhân con
người và cộng đồng mà không phải đặt trên luân lý đạo đức, đặt nền tảng
trên cái nhìn trí tuệ mà không phải trên hận thù và đấu tranh.
Cái nhìn theo tinh thần Phật học mang
tính nhân bản tuyệt vời, vì trong cuộc sống ngày nay, cái nhìn duyên
sinh vô ngã không mang ý nghĩa phi nhân bản với cách hiểu khống chế và
triệt tiêu ý thức của con người cá nhân, mà ngược lại chính của nó là
phương tiện giúp con người được giải phóng triệt để, giải phóng ra khỏi
lao ngục của tư duy hữu ngã của chính bản thân mình và trở nên ung dung
tự tại trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Con người khi chấp chặt bám víu
cái “tôi” đó, “cái tôi thấy, cái tôi nghe, cái tôi cảm, cái tôi nghĩ,
cái tôi nhìn...” thì làm sao nhận chân được hiện hữu như thật và đối xử
với nó, mọi ý nghĩa, hành động ở đây chỉ là một sự thiên lệch chủ quan
bị dắt dẫn và sai khiến bởi vô minh, sản phẩm của cái nhìn tư duy hữu
ngã. Để đạt đến cái nhìn bình đẳng vô sai biệt đối với hiện hữu, con
người cần phá bỏ thế giới nhị nguyên, cần phá bỏ cái chấp thủ; khó phá
bỏ nhất là chấp thủ của tư duy hữu ngã. Với cái nhìn này, con người thời
đại mới thật sự cảm nhận thế giới của mình, của tha nhân, của chư Phật,
những thế giới này hoà quyện lẫn nhau không phân biệt, không sai khác.
Từ đó con người trở nên tự do tự tại, không còn lệ thuộc vào tha nhân,
vào thần linh thượng đế, vào hiện hữu chung quanh, trái lại giá trị con
người được nâng cao tuyệt đối bởi đất trời, vũ trụ xưa nay vốn là một
bởi vì: “Thượng đế đã chết” (Nietzsche). Nhìn là phương pháp tối yếu để
khai mở khả năng vốn có của con người, nó gợi ý, đánh thức và phát triển
tiềm năng giác ngộ, bản tánh sáng suốt trong mỗi chúng ta, làm khơi dậy
những đức tánh Từ-Bi-Hỷ-Xả và loại trừ những ý niệm xấu ác của tư duy
hữu ngã. Cái nhìn (Chánh kiến) giúp con người tiến hoá đến đích cuối
cùng là Chân-Thiện-Mỹ kết tinh trong chữ Giác, hiện hình trong chữ Tâm,
thức tỉnh con người ra khỏi giấc ngủ triền miên của ngã ái, chuyển vọng
thức thành trí giác. Vì Trí tuệ của Phật không giám định bằng những thứ
bằng cấp, học vị, quyền lực..., mà Trí tuệ kiến lập bằng chữ Như, Như là
như như, là Như thị-như Tổ Phước Huệ từng nói:
“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Đến nay tính lại chừng quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ “Như”
Trí tuệ thấy hiện hữu như thật đang là,
thấy như thật cái “đương thể tức không” cái đang là mà không bị bóp méo
bởi tư duy hữu ngã. “Như” là thấy khổ, thấy vô thường, thấy vô ngã rốt
ráo ở tuệ giác giải thoát giác ngộ. Từ đó cái nhìn tư duy vô ngã không
còn lạc điệu trong muôn trùng vạn nẻo của những dòng nghịch lưu mà trở
về tĩnh lặng uyên nguyên muôn thuở.
Thế hệ hôm nay, chúng ta phải làm gì để
xứng đáng với cái nhìn ấy, để đem luồng sinh khí mới vào cuộc sống hiện
tại? Điều cần thiết trước tiên chúng ta phải tìm một cái gì mới: một
cuộc cách tân, một cuộc chuyển hoá tại tâm linh qua lăng kính duyên sinh
vô ngã, chứ đừng biến đạo Phật thành một tổ chức có uy quyền thế lực
với giáo đường vàng son, vì như thế sẽ tạo khoảng cách ly giữa con người
với đạo Phật. Chúng ta đừng biến Tăng sĩ thành những người sống vô tư
trên sự ưu đãi của chế độ cúng dường mà quên lãng nhiệm vụ “hoằng pháp
lợi sanh”. Chúng ta đừng để Tam bảo là bảo vật cao quí xa rời cuộc đời
khổ đau. Mà chúng ta phải thực hiện tất cả mọi hình thức sinh hoạt qua
cái nhìn, qua hành động cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi, để chứng minh Đạo
Phật hiện hữu trên cuộc đời là vì hạnh phúc, an lạc cho con người. Với
cái nhìn tư duy vô ngã thì chúng ta không bao giờ trốn tránh cuộc đời để
tìm nguồn phúc lạc cho riêng mình. Vì như vậy chỉ là sự ích kỷ, hẹp hòi
nhỏ nhoi chất chứa đầy phiền não, tự tạo cho riêng mình một cuộc sống
lẻ loi. Trong khi đức Phật dạy chúng ta chân lý ở ngay nơi cõi đời này.
“Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác.”
Sống với cái nhìn vô ngã ấy, là noi theo
cái nhìn từ bi của các vị Bồ Tát, lấy cuộc đời khổ đau làm trường rèn
luyện, xem nghịch cảnh chướng duyên là tiêu hướng kiên trì, để làm nở
hoa giải thoát giữa cuộc sống hằng ngày. Có như vậy, chúng ta mới làm
khơi dậy cái nhìn trí tuệ thực chứng của đức Phật đã khơi mở hơn 25 thế
kỷ qua:
“Không xuất thế thì không có gì khả
dĩ hơn được cuộc đời, không có gì khả dĩ hướng dẫn được cho cuộc đời và
làm đẹp cho cuộc đời. Còn không nhập thế thì không phải là đạo Phật nữa,
bởi vì từ bi và trí tuệ, bản chất của đạo Phật trong trường hợp này, sẽ
không có chỗ sử dụng” (HT Thích Nhất Hạnh- Đạo Phật hiện đại hoá).
Bây giờ mọi sự vật của cuộc đời đã rõ
ràng như thật, cái nhìn đầy dục vọng và ngã tính với tất cả bí mật ma
quái của nó đã bị dập tắt. Bí mật của hạnh phúc không phải là ở trong
một đấng quyền năng hay một lời cầu xin cứu rỗi nào cả, cũng không phải ở
cảnh giới xa lạ nào, mà ở trong chính mỗi người, trong chính cái nhìn
của chúng ta. Sự thật là hạnh phúc được gặt hái ở đây quả thật chẳng có
mấy hạt chắc, mà thật có tất cả. Thế hệ hôm nay tiếp nối thực hiện được
mở suối nguồn sinh lực vô biên qua cái nhìn duyên sinh vô ngã này, là
chúng ta thực hiện được hoài bảo của đức Thế Tôn và được gần gũi thân
cận Ngài, dẫu có cách xa hằng hà sa thế kỷ. Có như vậy chúng ta mới xứng
đáng là hàng Thích tử, chuyển vận cái nhìn vào cuộc đời “vì lợi ích
chúng sanh”.
Theo TẠP CHÍ PHÁP LUÂN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét