- Một bên, một thiên đường kinh tế phát triển, rất lý thuyết, với thị trường ảo, thị trường mạng, với những thị trường dịch vụ tài chánh ngân hàng…Với …những chỉ số các thị trường chứng khoán quốc gia có tầm vóc quốc tế như chỉ số Down của Mỹ, chỉ số CAC 40 của Pháp…, tăng trưởng đều đặn hằng ngày vùn vụt lên cao ; những hoạt động đầy năng nổ của các traders-courtiers chứng khoán. Ấy là chưa kể những dịch vụ hoạt động không ngừng không nghỉ, ngày đêm không ngủ, của các trung tâm dịch vụ tài chánh, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ thương mãi của những khu Wall Street ở thành phố New York của Mỹ hay khu City của thủ đô London Anh quốc…càng ngày càng nháo nhiệt. Hay những desks ngân hàng làm việc chóng mặt. Hãy theo dõi con số các tỷ phú trên thế giới càng ngày càng tăng, theo dõi con số các « đại gia » tàu, ấn, nga, và ngay cả « việt nam chơi ngông của ta », càng ngày càng nhiều. Một thí dụ, hảng đóng tàu của Pháp ở Saint Nazaire vừa nhận được hai hợp đồng đóng hai chiếc tàu Cruse to nhứt thế giới. Các máy bay chuyên cở hạng to Aibus 380, Boeing dreamer 777 làm không kịp để giao hàng. …và còn nhiều thí dụ khác, các hảng dịch vụ bán hàng qua mạng càng ngàycàng phát triển, các hảng thông tin, truyền thông càng ngày càng lớn…Facebook, Google, Amazon, Twitter.
- Và trái lại, một thế giới thứ hai, một địa ngục xã hội đầy thực tế, của cuộc sống hằng ngày, nghèo đói, thất nghiệp. Ở Liên Âu chúng tôi, nói riêng, chỉ số thất nghiệp vẫn còn mức cao. Nạn đói trên thế giới vẫn chưa giải quyết được cứ mỗi 4 người trên thế giới, có một người đói. Một phân nửa dân thế giới không có nước sạch. Và di dân, và tỵ nạn biến thành nạn. .. Hình ảnh chỉ những dân Phi châu tỵ nạn, chỉ người dân Ấn độ tỵ nạn là những hình ảnh xưa. Ngày nay, chẳng những các dân các quốc gia hồi giáo trung đông hay bắc phi tỵ nạn vì chiến tranh, vì bất ổn, mà cả công dân một nước giàu nhứt thứ giới là Tàu cũng đi lánh nạn.
Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014
Đạo đức và kinh tế–Gương Sáng Thụy Sĩ: Lương Tối Đa bằng Lương Tối Thiểu Nhơn 12.
2008-2014 : Khủng Hoảng Kinh tế Hay Khủng Hoảng Đạo Đức?
6
năm rồi, nền kinh tế – tài chánh thế giới vẫn còn hỗn loạn. Mặc cho
những tuyên bố các nhà trách nhiệm quản trị kinh tế thế giới. Từ các
nguyên thủ các quốc gia tiên tiến, đến các tổng trưởng kinh tế hay giám
đốc các cơ quan tài chánh quốc tế. Mặc cho những ồn ào chánh trị, mặc
cho những thay đồi chương trình, thay đổi chánh phủ, khi quay hướng phải
tư bản tự do, lúc quẹo hướng trái Xã hội Dân chủ. Dân chủ, Tự do, Tư
bản, Xã hội, khi rầm rộ báo chí truyền thông quảng cáo sơn đông mãi võ,
trống kèn rộn đám, lúc âm thầm thương thuyết, rỉ tai nhỏ giọt, đi đêm,
im lìm. Bao nhiêu cuộc họp, thượng đỉnh, trung đỉnh tốn kém tài sản
quốc gia, phung phí của cải mồ hôi nước mắt nhơn dân thế giới, rút cục
đều là những cuộc nói chuyện, những cái bắt tay, chụp hình, những buổi
tiệc tùng, những lời tuyên bố rỗng tuếch, thùng rỗng kêu to. Khủng
hoảng vẫn hoàn khủng hoảng, nợ nần vẫn nần nợ, quan chức đại gia vẫn đại
gia quan chức, vẫn ăn chơi phung phí ; công dân nghèo và công nhơn thất
nghiệp, nghèo đói vẫn tiếp tục muôn đời đói nghèo, thất nghiệp vẫn
muôn năm thất nghiệp.
Các
quốc gia tiên tiến thế giới, trước khủng hoảng năm 2008, tám nước đại
cường, loại nhà lầu cao ốc, villas biệt thự, họp thành khối đại gia G8,
quyết quản trị thế giới, gánh vác, chủ trì vận mạng toàn cầu. Nhưng
ngày nay, với khủng hoảng, anh nào cũng nợ, anh nào cũng đói, gánh nặng
không cam nổi, đành phải mở rộng « sân chơi, » đểu giả, « đạo đức
giả », « rộng lượng» mở cửa mời 12 nước đàn em nhảy vào gánh vác sơn
hà, chung lưng đấu cật, (chung tiền) cùng nhau họp thành khối đại
cường nhà ngói, khối nhà ngói G20 ! Rồi chia sơn hà ,
rồi giao trách nhiệm, xưng hùng xưng bá hùng cứ từng vùng, nhưng vẫn
chẳng đi vào đâu, vì các quốc gia đầu đàn chưa hoàn toàn phục hồi phong
độ, nên các đàn em quốc gia hạng hai, thường được được gom lại gọi
chung tên là « khối đang lên » và nay 5 tên khá nhứt thuộc hạng hai,
được đặt tên chung và gom lại dưới cái tên chung là BRICS gồm chữ cái
đầu của Brazil, Russia, India, China, South
Africa. Các quốc gia hạng hai ấy đều mang một mẫu số chung là nếu chỉ
số chung của kết quả kinh tế rất khả quan, nhưng những chỉ số chung về
kinh tế đầu người, về giáo dục, về an sanh xã hội thì hoàn toàn yếu kém.
Nói tóm lại, nếu các quốc gia Brazil, Ấn độ, Nga và Trung Cộng giàu, thì người dân Ấn,người dân Nga, và người dân Tàu vẫn còn nghèo.
Và cái hố cách biệt giàu nghèo càng ngày càng được đào sâu. . Mặc
những lời khuyên các kinh tế gia từng trúng giải Nobel kinh tế, mặc
những lý thuyết mới về kinh tế, mặc những chương trình cải tổ, mặc những
đàm phán, thiên hạ ngày nay vẫn phải sống với hai thế giới, với hai
quan niệm chạy song song đầy nghịch lý:
Là
những người ty nạn, an cư lập nghiệp tại các quốc gia tiên tiến âu mỹ
tây phương, chúng ta phải thông cảm những người tỵ nạn, chẳng những
chánh trị, chiến tranh mà cả kinh tế xã hội nữa. Tỵ nạn một nơi như nước
Pháp – lấy trường hợp cá nhơn của chúng tôi để làm thí dụ – thật là
giải quyết hết mọi vấn đề sanh tồn. Từ lúc trẻ mang gia đình đến an cư
lập nghiệp, sanh sống an nhàn, đến nay về già hưu trí yên thân, bản
thân người tỵ nạn được bảo vệ từ cuộc sống hằng ngày đến tương lai con
cháu, hậu duệ ! .. . Từ con cái học hành miễn phí, đến sức khỏe gia đình
cũng miễn phí, đến lúc con cái trưởng thành ra đời nghề nghiệp, người
dân tỵ nạn hoàn toàn sống với những bảo đảm xã hội của một người bản
xứ, với tất cả những bảo vệ an sanh, với tất cả những cơ chế hành chánh
an ninh và tôn trọng quyền con người. Quê hương người nay là quê hương
ta. Tổ quốc người nay là tổ quốc ta. Buồn thay, tủi thay cho quê hương
xưa cũ Việt Nam ta đang trên đường tụt hậu, lún sâu vào của sự nghèo
đói, dốt nát, thiếu văn minh, kém văn hóa, và vô đạo đức. Cũng có
vài bạn tánh tình khó khăn, nhiều đòi nhiều hỏi than phiền với chúng
tôi, “sao anh cứ khen xứ người ?”. Nào xứ người vẫn xứ người, phải xứ
ta đâu ? “ Ao nhà vẫn hơn”, dù lắm đỉa, lắm lăn quăng, lắm … ! Cũng có vài bạn than phiền rằng làm việc Tây rất cực nhọc và bị kỳ thị !...Tất
cả các bạn ấy đều có lý cả, tất cả mọi trường hợp đều có gặp cả. Riêng
về kỳ thị, thiển nghĩ cũng nên công bằng mà tự xét lòng, người tây
phương kỳ thị ta hay ta kỳ thị người tây phương ? Thằng tỵ nạn ta cũng
thử tự hỏi xem cá nhơn thằng tỵ nạn ta muốn con mình lấy vợ, lấy chồng
người tây phương không ? Người tỵ nạn ta có muốn có nhà thờ cất gần nhà
mình không ? Phe ta có thích ở khu tây trắng, khu người đen, khu người
rệp, .. hay trái lại xúm nhau đế tụ họp, dắt nhau về ở gần khu ta giữa
những thằng tỵ nạn ta, và nếu được ở khu cùng với dân cùng làng cùng
xóm? Huế ở với Huế, Quảng chơi với Quảng, mà Quảng nào ? Nam ? Ngãi, hay
Bình Trị… Chưa bao giờ trong lịch sử cận đại Việt Nam các Bang Hội
Đồng Hương Việt Nam đông như lúc nầy. … Ai kỳ thị hơn ai ? Người Việt
mình đặc biệt là cái gì cũng nhứt, 4000 năm văn hiến, lâu hơn Pháp Mỹ
Anh Đức Nhựt…lâu hơn Tàu, vì người Việt là thủy tổ người Tàu mà !!??,
người Việt đồng bằng Sông Hồng, cái nôi của nhơn loại, ăn thịt chó mắm
tôm, là đĩnh cao trí tuệ, đánh thằng ba cường quốc Pháp Nhựt Mỹ…Mề đay
vàng trong tất cả mọi hiểu biết: hiểu biết tất cả. Người Việt ta là thủy
tổ của người Á đông, là chủ nhơn của văn hóa và chữ viết của Tàu…Và văn
minh Tàu do người Việt mình mang từ Nam lên Bắc. Thí dụ từ ngữ Trung Nguyên Tàu là do từ ngữ Trong Nguồn Việt biến dạng thành. Khổng Tử người nước Lổ, là người Nam Hoa tức là người Việt. Vì vậy không nên sợ các Viện Khổng tử bành trường tại Việt Nam ta. Khổng tử Hóa không phải Hán hóa mà là Việt ( cổ) hóa, là Châu về Hợp Phố. Vi vậy từ nay không còn sợ nạn Hán Hoá nữa. Vì nếu Trung Cộng đớp Việt Nam, thì cũng Châu về Hợp Phố thôi ! Lo gì ! Thoát Trung ? còn lâu. Ta “Đớp”, Ta “Xâm nhập Trung” chứ !!
Xin
lỗi quý độc giả thằng tui lại việt vị – hors jeu – ọt rơ rồi. Ta hãy
trở về với nghịch lý một thế giới nghèo đói càng ngày càng nghèo đói,
nằm ngay bên cạnh một thế giới đại gia càng ngày đại gia giàu có, nghịch
lý một bên càng giàu, một bên càng nghèo đang đi vào bế tắc và càng
ngày càng đào sâu.
Thụy Sĩ:
Người
Thụy sĩ dám nghĩ và dám làm. Để giải quyết cái nghịch lý nói trên,
người dân Thụy sĩ, qua những cuộc trưng cầu dân ý, có những hành sử sau
đây:
Xin phép mở một dấu ngoặc đê giới thiệu một tập tục rất dân chủ của xứ đồng hồ và chocolat. Tập tục ấy là trưng cầu dân ý.
Bất cứ một công dân Thụy sĩ nào có một đề nghị một ý kiến khà dĩ để
giài quyết mỗt vấn đề xã hôi, kinh tế, hành chánh hay kể cả chánh trị
nếu hội đủ một số chữ ký cho ý kiến, hay đề nghị ấy, thì nhà chức trách
địa phương hay quốc gia phải tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, tùy theo
ý kiến hay đề nghị có tầm vóc địa phương hay quốc gia. Và kết quả cuộc
trưng cầu dân ý có thể biến thành luật. Một thí dụ, năm kia ý kiến “cho
phép xây cất, thành lập, nhà thờ Hồi giáo ở Thụy sĩ” : Trưng cầu dân ý
không thông qua, kết quả ngày nay Luật ở Thụy sĩ cấm, không thể xâycất
hay thành lập một nhà thờ Hồi giáo. Đóng dấu ngoặc.
Trở
về câu chuyện, nghịch lý và bất công xã hội và kinh tế giữa hai thế
giới con người. Để tìm giải pháp cho bất công xã hội, nghịch lý giàu
nghèo quá cách biệt, thói thường người ta nghĩ đến vai trò giá cả hàng
hóa và lương bổng công dân. Lý do giá cả lương bổng bảo đảm đời sống vật
chất công dân và bảo vệ người công nhơn không bị chủ nhơn bóc lột. Ở
Pháp, có truyền thống luật Lao động với mức lương tối thiểu SMIG (
Salaire Minimum Indexé Garanti) vừa bảo đảm người công nhơn không bị bóc
lột vừa bảo đảm sức mãi lực vì thay đổi theo thị trường thời giá mắc
mỏ. Nhưng ở Thụy sĩ, dân Thụy sĩ không làm vậy.
Ngày
18 tháng năm năm 2014, dân Thụy sĩ bỏ phiếu với một đại đa số từ chố
không chấp nhận viết một con số vào mức lương tối thiểu. Mặc dù lương
tối thiểu ở Thụy sĩ hiện nay lớn nhứt thế giới: 4000 quan Thụy sĩ CHF –
gần 3200 euros, xêm xêm 4000 dollars Huêkỳ ! Kết quả nầy vừa đến cùng
dịp với kết quả sáu tháng trước, dân Thụy sĩ cũng từ chối không chịu hạn
chế lương tối đa các lãnh đạo. Từ chối không ra số lương tối đa, từ
chối không ra số lương tối thiểu, dân Thụy sĩ nhất định không làm luật
lê lương bổng. Truyền thống Tin lành, Calvin, Luther, đối với dân Thụy
sĩ tất cả là thương thuyết, thương lượng.
Để chung sống hoà bình: Chỉ số 12
12
? tại sao 12 ?, chỉ số 12. Ngộ quá ! Trước thời gian bầu cử Tổng thống
Pháp vào đầu năm 1912, hai nhà kinh tế học Pháp, gốc tu sĩ Thiên chúa
giáo la mã Gaël Giraud, dòng Tên-jésuite, và Cécile Renouard nữ tu sĩ
dòng Đức Mẹ lên Trời-assomptionniste viết cuốn sách có tựa đề Chỉ số 12-Le facteur 12, và với giòng tựa nhỏ để cắt nghĩa con số 12 nầy : tại sao phải hạn chế mức tối đa cho lương bổng-pourquoi il faut plafonner les revenus ?
Hai nhà kinh tế học đã dùng bảng lương bổng của các nhơn viên nhà nước
Pháp để nghiên cứu. Đúng vậy thứ tự lương bổng công chức Pháp đi từ 1
đến nhơn 11, kể cả những phụ cấp.
Hạn
chế mức tối đa lương bổng các quan chức lãnh đạo tư bản ? Có quá lý
tưởng chăng, ? không tưởng? có nằm mơ chăng? Với Gaël Giraud: “ Tôi
biết rằng khi tôi viết ra tôi biết rằng tôi quá lý tưởng, Nhưng tôi
nghĩ con số 12 sẽ tạo một suy nghĩ đồng thuận giữa những ai thích công
bằng và ổn định xã hội.”
Những
năm tháng gần đây, một lô xì-căng-đan do những đồng lương với phụ cấp,
một lô những hưu trí đặc biệt, những phần thưởng đặc biệt lần lượtđược
chiếu cố bởi các cơ quan truyền thông đăng nhũng bài tố cáo. Những số
tiền khổng lồ, những phần thưởng với những hàng zérô dài dòng dọc, không
“ăn thua” gì đến kết quả của xí nghiệp được trả cho những đầu não, lãnh
đạo về hưu, về an vườn, chiến thuật “bịt miệng và cho de!” hay “ khóa
mõm cho ra chầu rìa!” vượt khổi những tầm mức của đạo đức.
Ngày
hôm nay, số lương lớn nhứt của một ông Chủ của một trong các xí nghiệp
lớn ở Pháp có tên trên thị trường chứng khoán CAC 40 Pháp, lớn hơn
20 000 lần lương SMIC tối thiểu của người công nhơn Pháp. Theo hai nhà
tu sĩ Renouard và Giraud, đó là một sự quá bất công ! Hãy nên nghĩ
đến một sự cân bằng (tương đối) để giài quyết bất công ! Và đây cũng là
một suy nghĩ đạo đức, một đạo đức dân chủ và một cân bằng xã hội mà
ngày nay một số nền văn hóa đã lãng quên. Với một sự cách biệt to
lớn như vậy giữa hai nguồn lợi tức, làm sao có thể nghĩ rằng những công
dân của một quốc gia có chung ý thức là cùng sống chung một xã hội, một
quốc gia hay một thế giới
Phải làm sao thúc đẩy được ý thức ấy?
Chỉ số 12.
Làm sao chắc chắn rằng lương tối đa lớn gấp 12 lần lương thiếu thiểu là
lý tưởng ? Nhiều ý kiến thuận cho ba lý do để cắt nghĩa:
Thứ
nhứt, về Kinh tế học, những mức lương khổng lồ thường chỉ tạo những tài
sản vô dụng, nhiều tiêu cực và tác hại hơn tích cực, do những cuộc
tranh tài vô dụng, hay thi đố chơi ngông ( kiểu đốt tiền, hay tắm bằng
champagne) những cuộc đấu giá (tranh nhau mua cho bằng được một bức
trangh, một cuộc chơi), những đầu cơ – kiến trúc, vật hiếm, loại trứng
cút …) tạo những bong bóng tài chánh kinh tế, những thị trường vô luật
lệ chỉ làm hại nền kinh tế. Nếu những số lương cao biết phân phối chia
xẻ công bằng cho xã hội sẽ tạo những công ăn việc làm mới, phát triển
nền kinh tế dịch vụ xã hôi, tạo một thị trường xã hôi, nội địa, phá được
cái vòng lạm phát, tạo mãi lực tức tạo lại nền kinh tế.
Thứ
hai về mặt Xã hội học, một cơ chế lương bổng công bằng, tạo một thị
trường cân bằng. và dễ dàng đi đến một chế độ dân chủ công bằng.
Và
cuối cùng về mặt Môi trường, một xã hôi cân bằng chú ý đến môi trường
hơn. Vì tạo mãi lực cho số đông giúp số đông sống cạnh môi trường lân
bang láng giềng, chăm sóc môi trường và ít tàn phá môi trường. Khi
những cán bộ cao cấp và trung cấp cùng với những công nhơn của hạ từng
cơ sở chia xẻ những chỉ số lương bổng gần nhau, tự nhiên họ hợp thành
một cộng đồng xí nghiệp, một cộng đồng xã hội cùng sống, cùng ăn, và
cuối cùng ít có dị biệt hơn trái với một cộng đồng xí nghiệp có chỉ số
lương bổng quá nhiều cách biệt Lợi dụng hạn chế đồng lương tối đa là dỉ nhiên phải năng cao đồng lương tối thiểu.
Do đó mức lương trung bình sẽ cao. Số người nằm chung quanh điểm trung
bình càng đông, Toàn bộ cán bộ và công nhơn họp thành một công đồng có
chung một giắc mơ, một chương trình, một ý chí, một mục tiêu . Đó là
đoàn kết!
Thụy sĩ đang làm. Chừng nào Pháp? Chừng nào Mỹ, chừng nào thế giới? Và Chừng nào Việt Nam?
Mong lắm !
Hồi nhơn Sơn đầu tháng 11 năm 2014
Phan Văn Song
0 nhận xét:
Đăng nhận xét