Tuy nhiên, hầu như chắc chắn là các tín đồ Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-maGiáo nói riêng không mấy ai biết đến 5 người đàn bà đặc biệt này, vì họ thường không đọc Thánh Kinh, và vì chuyện về 5 người đàn bà này không bao giờ được giảng trong nhà thờ, và không bao giờ được nói đến trong những lớp học Thánh Kinh cho người lớn cũng như trẻ con. Vậy thì để tăng thêm phần nào kiến thức về dòng dõi Chúa Giê-su, chúng ta hãy tìm hiểu trong Thánh Kinh những người đàn bà này là ai. Sau đây tôi xin kể những chuyện về 5 người đàn bà đặc biệt trên như được viết trong Thánh Kinh, và xin kể hoàn toàn miễn phí. Ở đây tôi chỉ kể theo Thánh Kinh chứ không chép nguyên văn từ Thánh Kinh. Cuốn Thánh Kinh bằng tiếng Việt mà tôi có, cuốn “Kinh Thánh: Cựu Ước Và Tân Ước”, xuất bản bởi American Bible Society, New York, 1998, không thể đọc được, vì văn chương rất lủng củng, tối mò mò, và dịch sai nhiều chỗ so với cuốn của Vua James [King James Version], cuốn Kinh Thánh được dùng nhiều nhất trong thế giới Tây phương.
Tamar: Chuyện về Tamar có trong Sáng Thế Ký 38. Chúng ta có thể tóm tắt như sau:
Judah (chúng ta không cần biết Judah là ai, chỉ biết đó là một nhân vật trong gia phả của Giê-su) ở xứ Canaan có ba người con trai. Con trưởng là Er, con thứ là Onan, và con út là Shela. Judah cưới Tamar làm vợ cho trưởng nam Er. Nhưng vì Er là người xấu, đồi bại đối với Thiên Chúa nên Thiên Chúa vật chết anh ta (Thánh vật) [Genesis 38: 7: But Er, Judah’s firstborn, was wicked in the sight of the Lord, and the Lord killed him] Thánh Kinh không viết rõ là Er đồi bại như thế nào để đến nỗi bị Thiên Chúa vật chết. Nhưng chúng ta biết ở Trung Đông khi đó thì Thiên Chúa của Ki Tô Giáo luôn luôn can thiệp vào chuyện thế gian, thí dụ như ông ta ra lệnh cho các binh sĩ ở trong trại khi đi cầu xong phải đào lỗ chôn phân vì ông ta không muốn ngửi hay giẫm phải khi đi dạo trong trại quân [Deuteronomy 23: 13-14]. Ông ta vừa là công tố viên [prosecutor], vừa là hội thẩm đoàn [jury], vừa là quan tòa [judge], cho nên chỉ cần ông ta phật ý vào một điều nào đó, dù nhỏ nhặt đến đâu, cũng đủ cho ông ta tự tay hoặc ra lệnh cho tôi tớ của ông ta giết chết nạn nhân. Điều này chúng ta thấy ông ta thi hành trong khắp cuốn Thánh Kinh, và con số nạn nhân của ông ta mà người ta đếm được trong Thánh Kinh thì rất nhỏ so với con số không đếm được như trong nạn hồng thủy, hay trong vụ hủy diệt thành Sodom v..v..., là trên 2 triệu người gồm từ trẻ sơ sinh đến ông già, bà cả.
Trở lại chuyện Tamar. Chồng Tamar là Er bị Thiên Chúa vật chết, và ông bố Judah ra lệnh cho người con thứ là Onan: “Hãy “đi vào” chị dâu ngươi và lấy nó, và hãy có con để nối dòng dõi cho anh của ngươi” [xin lỗi độc giả, tôi dịch sát nghĩa trong Thánh Kinh của cụm từ “go in to” mà chúng ta thấy trong rất nhiều trường hợp tương tự trong Thánh Kinh, nhưng xin độc giả hiểu cho rằng chẳng ai có thể bằng hai chân đi vào một phụ nữ. Có thể dịch thoát là “hiệp thông” nhưng sợ làm mất nghĩa của hiệp thông Tam Tòa hoặc hiệp thông với Chúa. Tiếng Việt văn hoa lịch sự gọi “go in to” là “ngủ với” hay “làm tình”, tiếng Mỹ gọi đơn giản là “chử F” (“F” word), nhưng Thánh Kinh thì viết rõ ràng là “go in to”] (Nguyên văn King James Version: Genesis 38: 8 : And Judah said to Onan: “Go in to your brother’s wife and marry her, and raise up an heir to your brother”). Từ đây về sau tôi để nguyên cụm từ “go in to” trong suốt bài.
Có lẽ chúng ta lấy làm lạ, không hiểu có phải ông Judah có đầu óc bất bình thường hay sao mà lại ra cái lệnh loạn luân này cho Onan, và con của Onan sinh ra lại là con của Er. Không phải đâu là không phải đâu [Bao Bất Đồng]. Vì đó chính là luật của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một trong vô vàn những luật lệ mà về sau Chúa Giê-su phán: “Ta xuống đây để thi hành những luật của Cha Ta. Cho đến khi tận cùng của thế giới, một chấm một nét của những luật đó cũng không thể thay đổi”. Luật này nằm ở đâu? Xin thưa, ở trong “Phục Truyền Luật Lệ Ký 25: 5-6” (Deuteronomy 25:5-6): “Nếu các anh em ruột ở cùng với nhau mà một người chết mà không có con trai, thì người góa phụ không được lấy người ngoài gia đình; người anh hoặc em của chồng bà ta sẽ “go in to” bà ta, cưới bà ta làm vợ, và phải làm bổn phận của anh, em chồng đối với bà ta. Và đứa con trai đầu lòng sinh ra sẽ được coi là thừa kế của người chồng đã chết.” [If brothers dwell together, and one of them dies and has no son, the widow of the dead man shall not be married to a stranger outside the family; her husband’s brother shall “go in to” her, take her as his wife, and perform the duty of a husband’s brother to her. And it shall be that the firstborn son which she bears will succeed to the name of his dead brother.] Luật này, cũng như các luật khác của Thiên Chúa, được Môi-se (Moses) nói với người Israel như sau, Deuteronomy 4: 6: “Cho nên các ngươi phải giữ và làm theo các luật lệnh này, vì đó là trí tuệ và hiểu biết của các ngươi trước các dân tộc mà họ sẽ nghe biết tất cả những luật lệ này và nói rằng: “Đúng là quốc gia vĩ đại này là một dân tộc khôn ngoan và hiểu biết.” [Therefore be careful to observe them; for this is your wisdom and your understanding in the sight of the peoples who will hear all these statutes, and say, “Surely this great nation is a wise and understanding people”] Hiển nhiên là cũng như Do Thái, các dân Chúa khắp nơi về sau đều có thể coi là khôn ngoan và hiểu biết khi tuân theo các luật của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo.
Onan tuân lệnh cha, “go in to” chị dâu Tamar, nhưng không muốn có con vì biết rằng con đó lại không phải của mình mà là của ông anh, cho nên xuất tinh ra ngoài và xịt xuống đất (emitted on the ground). Mốt “go in to” này tiếng La-tinh là Coitus Interruptus, nhưng về chuyện của Onan ở trên, có học giả đặt là “Coitus Onanterruptus” và những lần Onan “go in to” chị dâu như vậy bị coi là “Mission unaccomplished” không hoàn thành như “Missision accomplished” của Ông Bush ở Iraq. Thánh Kinh viết: Thiên Chúa không hài lòng với nhiệm vụ bất thành [mission unaccomplished] của Onan nên cũng giết tốt anh ta luôn. [Genesis 38: 10: And the thing which he (Onan) did displeased the Lord; therefore He killed him also] Chắc Thiên Chúa có mặt những lúc Onan xịt xuống đất vì Thiên Chúa có mặt khắp nơi (omnipresent). Chúng ta cũng nên biết là Giáo hội Ca-tô đã lấy chuyện này trong Thánh Kinh và đặt ra từ “Onanism” để đe dọa hình phạt của Thiên Chúa đối với các tín đồ can tội thủ dâm, hay ngừa thai, một trọng tội trong Ca-tô giáo. Tại sao lại phải đe dọa? Vì Giáo hội cho rằng, “go in to” là để sinh con đẻ cái chứ không phải là vì thú vui xác thịt. [New Catholic Dictionary: And the Lord slew him [Onan], because he did a detestable thing.… Onanism is always a grave sin. It is a crime opposed to natural law, for it frustrates the primary purpose of matrimony, namely, the procreation of offspring.] Thế là Tamar lại trở thành góa phụ. Judah bèn bảo Tamar: “Thôi hãy về nhà Bố con mà ở, chờ khi nào Shela khôn lớn ta sẽ cho nó “go in to” con.”
Thời gian qua, vợ Judah đã chết, và Shela đã khôn lớn nhưng Tamar không thấy ông ta đả động gì đến chuyện cho Shela “go in to” mình. Rồi một hôm Tamar nghe biết rằng ông Bố chồng sắp đi đến Timnah cùng với vài người bạn để hớt lông chiên. Nàng bèn cởi bỏ y phục của góa phụ, lấy mạng che mặt, rồi ngồi ngay trên đường đi Timnah. Khi Judah đi qua, thấy nàng, tưởng nàng là một gái điếm, đến gần và nói: “Làm ơn làm phúc để cho ta “come in to” cô” [Please let me come in to you] vì ông ta không biết đó là con dâu ông ta. Tamar nói: “Ông sẽ cho tôi cái gì để “go in to” tôi?”. [Ngày nay thì Tamar phải hỏi: “How much do you want to pay?”] Judah nói: “Ta sẽ cho nàng một con chiên nhỏ trong đàn chiên của ta”. Tamar hỏi: “Ông cho tôi vật gì để làm tin trong khi chờ đợi ông mang chiên con đến cho tôi?” Judah hỏi: “Ta cho cô vật gì để làm tin bây giờ?” Tamar trả lời: “Thì con ấn và sợi giây, cùng cây gậy đang ở trong tay ông đó” Và Judah cho Tamar các thứ đó, và “go in to” Tamar, và Tamar có mang. Tamar bỏ đi, dẹp đi cái mạng che mặt, và mang lại quần áo của một góa phụ. Rồi Judah nhờ một người bạn mang đến cho Tamar một con chiên nhỏ và lấy lại các tín vật mà ông ta đã đưa cho Tamar trước đó. Nhưng người bạn này không tìm thấy Tamar, hỏi thăm người xung quanh về cô gái điếm ngồi bên vệ đường, thì họ đều trả lời là chẳng có ai là gái điếm ở đây.
Thế rồi vào khoảng ba tháng sau, có người nói với Judah là: “Tamar, con dâu của ông, đã làm gái điếm và nay đã có mang”. [Tamar your daughter-in-law has played the harlot; furthermore she is with child by harlotry]. Judah bèn nói: “hãy đem nó ra đây để thiêu sống nó”. Khi Tamar đến trước Judah và nói: “Đây là những tín vật của người mà tôi có con với ông ta. Hãy xác định con ấn và giây và cây gậy này là của ai.” Và Judah nhận ra đó chính là những vật của mình. Rồi Tamar sinh đôi ra hai đứa con: Perez và Zerah. Chúng ta cần biết, Giê-su thuộc dòng dõi của Vua David, và Vua David thuộc dòng dõi của Perez, và Perez là con trưởng của Tamar.
Chỉ có điều, Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài nhưng lại không biết rằng trái đất hình cầu và quay xung quanh mặt trời, điều mà ngày nay các học sinh tiểu học đều biết. Thật ra thì đối với chúng ta trên trái đất, mặt trời là một định tinh và tương đối thì đứng yên một chỗ, và trái đất quay xung quanh mặt trời cho nên có hiện tượng biểu kiến (apparent) là mặt trời mọc và mặt trời lặn. Mặt trời đứng yên giữa trời có nghĩa là trái đất, một khối nặng khoảng 6 triệu tỷ tỷ ki-lô [6 x 10 24 kg] đang di chuyển xung quanh mặt trời với vận tốc khoảng trên 100000 kmh (một trăm ngàn cây số một giờ) bỗng dưng … ngừng lại như Kinh “thánh” chép. Chuyện gì sẽ xảy ra. Xin để cho sự điên rồ (foolishness) của Thiên Chúa hay sự thông thái của các trí thức Ca-tô, Tin Lành trả lời.
Ruth: Chuyện về Ruth ở trong phẩm Ruth.
Ở Judah (một miền của Do Thái) xảy ra nạn đói. Một người ở Judah tên là Elimelech cùng vợ là Naomi và hai người con trai tên là Mahlon và Chilion, rời Judah đến định cư tại xứ Moab. Rồi Elimelech, chồng Naomi, chết. Naomi cưới vợ người xứ Moab cho hai con, một người tên là Orpah, người kia là Ruth. Rồi cả Mahlon và Chilion đều chết. Ba góa phụ sống cùng với nhau. Naomi nghe rằng Thiên Chúa đã đoái thương Judah và ban phát lương thực cho dân Judah cho nên Naomi và hai người con dâu lên đường trở về Judah. Naomi nói với hai người con dâu: “Các con hãy trở về nhà mẹ của các con mà ở. Thiên Chúa đã đối xử tốt với các con, cũng như các con đã đối xử tốt với chồng và với mẹ. Thiên Chúa ban ơn cho các con rằng các con có thể sống bình yên trong nhà người chồng mới.” Hai nàng dâu nói: “Chúng con sẽ cùng mẹ trở về Judah.” Nhưng Naomi nói: “Hãy trở về nhà đi, các con, tại sao các con lại đi với mẹ, ta còn có thể sinh ra các con trai để chúng có thể làm chồng các con sao.” [Turn back, my daughters; why will you go with me? Are there still sons in my womb, that they may be your husbands] “Hãy trở về nhà đi các con, vì ta đã quá già để có thể có chồng. Nếu mẹ nói là mẹ hi vọng là mẹ có chồng ngay tối nay và rồi sinh con, thì các con sẽ chờ đến khi chúng khôn lớn hay sao?” Orpah trở về nhà mẹ, nhưng Ruth quyết định đi theo mẹ chồng.
Và hai người trở về Bethlehem vào dịp đầu mùa gặt hái. Ở đây, Naomi có người bà con bên chồng, tên là Boaz, rất giàu có. Rồi Ruth nói với Naomi: “Hãy để con đi ra ngoài đồng mót lúa, theo sau hắn (Boaz), nhìn thấy con hắn có thể ưu đãi con”. Và quả nhiên Boaz đối xử đặc biệt với Ruth… Rồi một hôm bà mẹ chồng quý bảo cô con dâu quý: “Đêm nay, Boaz phải đi sảy lúa mạch nơi sân đạp lúa. Con hãy tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm, mặc bộ quần áo đẹp nhất, đến sân đạp lúa, nhưng đừng để cho ai nhìn thấy cho đến khi Boaz ăn uống xong. Sau đó hãy xem hắn nằm nơi đâu, đến đó mở mền dưới chân hắn, nằm xuống bên và hắn sẽ bảo con phải làm gì.” Và Ruth đã làm theo đúng lời mẹ chồng dặn. Boaz bảo Ruth phải làm gì thì Thánh Kinh không viết rõ. Chỉ biết rằng sau đó Boaz lấy Ruth làm vợ, và khi Boaz “go in to” Ruth thì Thiên Chúa làm cho Ruth có mang và sinh cho Boaz một đứa con đặt tên là Obed. [So Boaz took Ruth and she became his wife; and when he “went in to” her, the Lord gave her conception, and she bore a son…and they called him Obed]. Thánh Kinh viết, Ruth 4: 17-19: Obed là cha Jesse, Jesse là cha của David, ông Vua vĩ đại của Do Thái mà người Ca-tô Việt Nam hàng ngày cầu nguyện để được mau về quê thật hiệp làm một cùng ông ta. Vậy David là ai? Chúng ta sẽ biết rõ hơn về ông ta qua chuyện về người đàn bà thứ tư: Bathsheba.
Bathsheba: Chuyện về Bathsheba có trong 2 Samuel.
Câu chuyện liên quan đến Vua David, một ông Vua Do Thái rất nổi tiếng đối với người Ca-tô Giáo Việt Nam, những người có một đức tính tuyệt vời: Không đọc Thánh Kinh ! Thật vậy, chúng ta có thể đọc những lời ca tụng Vua David như sau:
Quý vị có bao giờ thấy một người đàn bà hàng xóm tắm truồng ở ngoài sân để cho quí vị nhìn thấy không? Có thể quý vị may mắn hơn tôi chứ riêng tôi, tôi chưa bao giờ thấy như vậy. Tại sao Bathsheba lại tắm truồng ở một nơi mà bà ta biết chắc là David có thể nhìn thấy từ sân thượng dinh của ông ta? Nếu David nhìn thấy bà thì tất nhiên Bà cũng phải nhìn thấy David. Phải chăng bà đã nhiều lần nhìn thấy David ở trên sân thượng, thấy vóc dáng oai hùng của ông Vua mà khi xưa đã đánh bại người khổng lồ, vả lại cũng thừa biết tính nết của David, tính nết mà cả nước đều biết, nên đã lập kế hoạch để chiêu dụ David?
Ngày nay, người ta đã kiếm được một số tài liệu nói về Giê-su còn sót lại, không bị thiêu hủy bởi Ca-Tô Rô-maGiáo, vì trong những tài liệu này có những chứng tích không phù hợp với nền thần học của Ca-Tô Rô-maGiáo. Thí dụ như tài liệu mang tên Sepher Toldoth Jeshu, viết vào khoảng cuối thế kỷ đầu, mà cuối thế kỷ 19 mới được dịch ra tiếng Anh là The Jewish Life of Jesus, có nghĩa là Cuộc Đời Do Thái Của Giê-su. Trong tài liệu này, Miriam (Mary) đã được hứa hôn với một người đàng hoàng tên là Jochanan (Joseph), nhưng rồi lăng nhăng với một tên ăn trộm du thủ du thực nhưng rất đẹp trai tên là Pandera (Pandera was a man of fine figure and rare beauty, but spent his time in robbery and licentiousness) và mang bầu. Khi biết được, để tránh sự nhục nhã và xấu hổ, Joseph đã bỏ đi Babylon sinh sống (To avoid the shame and disgrace, Joseph ran away to Babylon and there took up his abode). Đến kỳ sinh nở, Miriam sinh ra một đứa con trai và đặt tên nó là Jehoshua (Jesus) [In due time Miriam brought forth a son and named him Jehoshua] Chúng ta thấy chuyện sinh ra của Giê-su trong Tân ước khá tương tự nhưng vai trò của các nhân vật trong tài liệu trên đã thay đổi: Tên côn đồ đẹp trai Pandera làm cho Mary mang bầu trở thành “Thánh Linh”, và Joseph cảm thấy xấu hổ và bỏ đi Babylon đã biến thành Joseph không muốn làm cho to chuyện cho nên nghe lời thiên thần báo mộng, chấp nhận Mary làm vợ, rất hãnh diện vì vợ mình được Thánh Linh chiếu cố, và vì vậy mà sau này được Ca-Tô Rô-maGiáo phong thánh.
Trên đây chỉ là một tài liệu “không chính thống” vì không phù hợp với những tài liệu mà giáo hội Ca-tô công nhận. Vậy thì chúng ta hãy trở về tài liệu chính là cuốn Tân Ước. Muốn tìm hiểu về Mary, chúng ta không thể tách rời Mary ra khỏi vai trò của Giê-su trong Ki Tô Giáo, và không đâu rõ bằng chuyện Mary sinh ra Giê-su. Phúc Âm Matthew (Mã-Thi-Ơ) kể như sau, Matthew 1: 18-24:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi”.
Việc xảy ra đúng như lời Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo] tiên đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ [they? Ai?] sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”.
Joseph tỉnh dậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Thứ nhất, chuyện Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật của Do Thái. Randel Helms viết trong cuốn Những Chuyện Giả Tưởng Trong Phúc Âm (Gospel Fictions), trang 48: “Có lẽ Matthew không biết là theo luật Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn phải hợp pháp và công khai” (Matthew was perhaps unaware that this (the marriage contract set aside quietly) was not possible under Jewish law; the process had to be legal and public.) Câu Joseph là người tốt bụng, không muốn nàng bị nhục trước công chúng ... cũng chứng tỏ là Joseph biết rõ là cái thai trong bụng Mary không phải là của mình.
Nghiên cứu cổ sử Do Thái, các học giả đã khám phá ra rằng, ngay từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái đã cho rằng khuôn mặt thần thánh của Giê-su thật ra chỉ là một đứa con hoang. Họ dựa vào chính Tân Ước vì Tân Ước viết rằng Joseph là chồng của Mary nhưng lại không phải là cha của Giê-su. Và ngay trong thời đại này, có nhiều học giả nghiên cứu Tân Ước cũng nghĩ như vậy.
Trong tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, có bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now). Tác giả viện dẫn Phúc Âm James và viết như sau:
Chuyện người ta cho rằng Giê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6, “Đây có phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường. Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời của Giê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai.
(Reynolds Price, Time, Dec. 6, 1999: The suggestion that Jesus' childhood may have been dogged by the accusation of bastardy is perhaps implicit in his townspeople's question in Mark 6, "Isn't this Mary's son?" To be called one's mother son, as opposed to one's father's, was often an implication of bastardy, or at least a sign that one's paternity was unknown, whether divine or not. Early opponents likewise suggested that Mary had conceived Jesus with a Roman soldier, Panthera. His childhood may well be clouded by questions about his paternity.)
Trong tài liệu Sepher Toldoth Jeshu kể trên cũng có đoạn Joseph than: “Than ôi! Thật là nhục nhã và xấu hổ cho tôi! Vì Mary, người hứa hôn với tôi, đã mang thai, không phải con của tôi, mà là con của người khác. Đó là con của con mụ Mary đó.“ [Alas! What a shame and disgrace has happened to me! For Mariam my bethrothed is with child, not by me, but by someone else. This is the son of that Mariam.]
Và Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:
Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ .
(John Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.)
Như vậy, xưa cũng như nay, ngoài các tín đồ Ca Tô Giáo, không có mấy ai tin Thánh Linh là tác giả cái thai trong bụng Mary, kể cả hệ phái Ki Tô Tin Lành. Tôi xin nhắc lại là phần phân tích khảo cứu này có mục đích tìm hiểu, mở mang kiến thức, chứ không phải là để phỉ báng bà Mary, đối tượng sùng tín của các tín đồ Ca-Tô Giáo. Và những kết quả nghiên cứu phân tích đều là của các tác giả Tây phương trong các xã hội Ki Tô Giáo và trong chính Ki Tô Giáo chứ không phải là của tôi hay của … Cọng sản !
Một vấn đề được đặt ra là, tại sao lại có nhiều học giả ngày nay cũng nghĩ như những tác giả Do Thái khi xưa, cho rằng Giê-su chỉ là một đứa con hoang? Vấn đề thực sự không lấy gì là khó hiểu. Nếu chúng ta đọc kỹ đoạn trên trong Tân ước của Matthew (Mat.1: 18-24) thì chúng ta có thể thấy rằng dư luận cho r ă ằ ng Giê-su là một đứa con hoang từ xưa cho tới ngày nay không phải là không có cơ sở.
Thật vậy, tại sao Matthew, một người tuy không phải là tông đồ của Giê-su nhưng rất tin Giê-su là một Messiah của Do Thái, lại viết ra chuyện “Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn..” Vì ông ta không thể bịt đi dư luận Mary “không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường” đã đồn đãi rộng rãi trong thời đó, và rồi ông ta giải thích bằng cách cho một thiên thần đến báo mộng cho Joseph biết là chính Thánh Linh đã làm cho bụng của Mary to, một chuyện mà ngày nay nếu người nào còn tin thì gõ vào đầu họ sẽ nghe thấy một tiếng vang lớn. Nhưng Matthew không phải là người có trình độ nên đã để lộ ra nhiều sơ hở rất mâu thuẫn và vô lý trong đoạn trên. Chứng minh?
⊙ Matthew viết: “Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.” (King James Version, Mat.1: 18: After His mother Mary was bethrothed to Joseph, before they came together, she was found with child of the Holy Spirit). “Người ta” ở đây là ai? Tất nhiên phải là những người ở quanh vùng Mary sống. Nhưng làm sao “người ta” lại có thể biết là Mary có mang với Thánh Linh, ngay cả trước khi thiên sứ báo mộng cho Joseph? Vì tuy Mary chẳng nói với ai, nhưng không thể che dấu được cái bụng càng ngày càng lớn.
⊙ Rồi câu tiếp theo: “Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.” (Joseph her husband, being a just man, and not wanting to make her a public example, was mind to put her away secretly). Câu này cho thấy hiển nhiên là Joseph không biết là Mary có mang với Thánh Linh như “người ta”, cũng không biết là Mary có mang với ai, và tin rằng Mary đã lăng nhăng với người nào khác, nhưng không muốn làm to chuyện để tránh cái nhục cho cả mình lẫn Mary.
⊙ Rồi đến câu tiếp theo: “Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.” Chúng ta thấy đây rõ ràng là một khung thần học do Matthew dựng lên, đúng như nhận xét của Jane Schaberg trong cuốn The Illegitimacy of Jesus ở trên. Vì chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc mộng của Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và trong Tân ước không hề có chỗ nào viết là Joseph kể chuyện này cho ai. Matthew viết phúc âm Matthew khoảng 60 năm sau khi Giê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Giê-su sinh ra đời. Lúc này, cả Joseph lẫn Mary có thể đã chết cả rồi. Matthew không thể là một nhân chứng trong giấc mộng của Joseph. Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của Giê-su. Kết luận? Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần thánh hóa người mình sùng tín: Giê-su, theo niềm tin riêng của mình.
⊙ Và câu của thiên sứ: Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi cho thấy mục đích của Thánh linh làm cho Mary mang thai để sinh ra Giê-su là Giê-su chỉ có nhiệm vụ cứu dân của nó, nghĩa là dân Do Thái mà thôi. Đây chính là sự mong ước của người dân Do Thái, hi vọng có một “cứu tinh”, cứu dân tộc ra khỏi vòng nô lệ của La Mã thời đó.
Trên đây là vài điều chúng ta biết về Mary như được viết trong Tân Ước, qua sự phân tích của một số học giả chuyên gia về Ki Tô Giáo. Còn các tín đồ Ki-tô Giáo muốn tin Mary như thế nào, đó không phải là chuyện đáng bàn cãi. Chúng ta biết rằng, qua thời gian, Mary đã được Giáo hội Công Giáo, qua rất nhiều thủ đoạn, từ những sắc lệnh của Giáo Hoàng cho đến những văn kiện ngụy tạo v..v.., dựng lên từ một người đàn bà Do Thái bình thường thành một biểu tượng sùng bái vô tiền khoáng hậu cho các tín đồ vốn lười suy nghĩ hay không có đầu óc thuộc loại có thể suy nghĩ. Sự sùng bái Mary được đẩy mạnh qua rất nhiều thủ đoạn mánh mưu của Giáo hội Công Giáo với sự góp sức của giới chăn chiên để bảo vệ quyền lợi của Giáo hội và giới chăn chiên, và nhất là để vơ vét của cải. Một trong những thủ đoạn này là dựng lên những chuyện hiện thân của Mary, không phải là sự hiện thân của một người đàn bà Do Thái bình thường, sinh ra đứa con hoang Giê-su như chúng ta thấy trong phần phân tích ở trên, mà là dưới các danh hiệu do Giáo hội đặt ra như Mẹ Thiên Chúa (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate Conception), “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual Virginity), “Đồng Công Cứu chuộc” (Coredemptrix) v..v... Điều này thật là dễ hiểu. Vì Giáo hội Công Giáo đã nâng Giê-su lên từ một đứa con hoang, tầm thường, xấu tính lên làm Chúa thì tất nhiên Mẹ của Chúa cũng phải có một vai vế đặc biệt để hấp dẫn tín đồ.
[a woman of courage who took great risks in a time of crisis to preserve her dignity and continue her husband’s line.]
[Rahab is held up as an example of great faith, a woman who believes in Israel’s God and aided the spies in the conquest of Canaan]
[Ruth is presented as a model of love and loyalty]
[Bathsheba is cast as the innocent victim of David’s lust and the mother of the supremely wise King Solomon]
Những giải thích trên đều nhằm mục đích “thanh tẩy” những sự thực về tội lỗi hay thiếu đạo đức của 5 người đàn bà trên. Điều này chúng ta cũng có thể thấy rõ trong một “tác phẩm” của Tổng Giám Mục Nguyễn văn Thuận, trước khi ông ta được phong chức Hồng Y.
Áp dụng tánh Kinh điển hình trong giáo hội, trong cuốn Chứng Nhân Hy Vọng: Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Cho Đức Thánh Cha Và Giáo Triều Roma của TGM Nguyễn Văn Thuận, Công Đoàn Đức Mẹ xuất bản năm 2000, tác giả mở đầu cuốn sách bằng Bài Suy Niệm Dẫn Nhập: Gia Phả Đức Giêsu Kitô Đứng Trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa, trang 25-34. Tác giả Nguyễn Văn Thuận chỉ nhắc đến gia phả Giê-su trong Matthew mà thôi và đặc biệt là, để biện minh cho những sự kiện được viết trong Thánh Kinh là trong gia phả của Giê-su có nhiều người đàn bà vô đạo đức, phi luân, tác giả đã đưa ra một luận điệu thần học có tính cách ngụy biện để biện minh cho những sự kiện không mấy tốt đẹp này. Tác giả viết, trang 28:
Danh sách những người [đàn bà] tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa.
Những người tội lỗi đó là ai? Toàn là những phụ nữ mà ông Thuận gọi là “bất hợp lệ” như Tamar, Rahab, Ruth, Bathsheba, và Mary thuộc dòng dõi của Giê-su. Theo Tổng Giám Mục Thuận thì tất cả những chuyện phi luân như trên đều là sự mầu nhiệm của Thiên Chúa cả. Mang cái bình phong “mầu nhiệm Thiên Chúa” ra để che đậy những điều có thể gây thắc mắc trong đầu óc tín đồ và ngăn chận tín đồ trong việc tìm hiểu thêm, TGM Thuận đã thể hiện sự bất lương trí thức của mình, đặc sản của những cấp lãnh đạo Ca-tô Giáo Việt Nam do Vatican đào tạo và phong chức. Phải chăng vì không đếm xỉa gì đến sự lương thiện trí thức, dùng lý luận thần học ngụy biện để lừa dối đám tín đồ thấp kém qua những điều giải thích hoang đường, phi lý trí v..v.. mà Tổng Giám Mục đã được thăng lên chức Hồng Y trước khi chết ít lâu?
Thật vậy, đoạn văn trong Matthew ở trên chẳng có gì là “gương mù”, và cũng chẳng có gì là “mầu nhiệm Thiên Chúa” như ông Thuận đã nghĩ. Vì ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã hiểu tại sao Matthew lại nêu tên những người phụ nữ tội lỗi trong gia phả của Giê-su. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn Sự Thực Phúc Âm của Russell Shorto:
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái, khi quan sát sự phát triển nhanh chóng của Ki Tô Giáo, đã ghi nhận rằng khuôn mặt thần thánh trong trọng điểm của Ki Tô Giáo (nghĩa là Giê-su. TCN) thực ra chỉ là một đứa con hoang. ..Về phương diện kỹ thuật, ngay cả khi đọc Phúc Âm theo truyền thống, điều trên đúng là sự thực, vì Joseph, chồng của Mary, không phải là cha thực của Giê-su. Đọc thật kỹ Matthew chúng ta có thể thấy điều trên rõ ràng...và Matthew đã đưa ra một kiến trúc thần học tinh vi để biến đổi một sự thật xấu xa thành một huyền thoại..
Một vấn đề trong gia phả của Giê-su đã làm bận tâm những nhà thần học không ít trong nhiều thế kỷ là tên của các phụ nữ trong gia phả của Giê-su. Tại sao chúng ta đọc thấy rằng: “Abraham là cha của Isaac, Isaac là cha của Jacob” v..v.. mà không thấy tên một phụ nữ nào xen vào, nhưng rồi chúng ta thấy “Judah là cha của Perez và Zerah, sinh ra bởi Tamar”, và “Salmon là cha của Boaz, sinh ra bởi Rahab,” và Boaz là cha của Obed, sinh ra bởi Ruth”, và David là cha của Solomon, sinh ra bởi “vợ của Uriah”?
Một nhóm học giả đã tìm hiểu trong 20 năm qua để tìm ra giải đáp cho điều thắc mắc này và họ đã khám phá ra rằng tất cả những phụ nữ được nêu tên trong gia phả của Giê-su đều là những người mang tai tiếng về vấn đề tình dục. Nói cách khác, Matthew đã cố ý làm nhẹ bớt vấn nạn Giê-su là đứa con hoang bằng cách vạch ra rằng trong nhiều đời tiền nhân của Giê-su, đây là điều cần thiết để tiếp nối dòng dõi các vua Do Thái qua những nhân vật khác thường.. Là đứa con hoang, điều này có thể là một biểu hiện của sự danh giá (badge of honor).
(Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, N.Y., 1997, pp. 36-41: From the early second century, Jewish writers observing the rapidly spreading Christian religion noted with a sneer that the supposed divinely inspired figure at its center was in fact a bastard. Swirling around the gospel stories, according to some scholars, are whispered cries of “illegitimate”... Technically, even by the traditional reading, this charge is true, for according to the accepted interpretation, Joseph, Mary’s betrothed, is not the actual father of the child. But a careful reading of Matthew’s account may suggest a more mundane kind of illegitimacy..and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition on... One thing about the genealogy that has bothered theologians for centuries is the mention of several women among the men who, in the ancient view, carry the bloodline. Why we are told that “Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob”, and so on, with no mention of the women involved, but then learn that Judah was the father of Perez and Zerah “by Tamar”, and Salmon the father of Boaz b”by Rahab”, and Boaz the father of Obed “by Ruth”, and that David was the father of Solomon “by the wife od Uriah”..? A solution to the puzzle has been worked up over the two past decades by a group of scholars who realized that all of the women mentioned are associated with scandalous sexual behavior. In other word, Matthew is softening the blow of Jesus’ questionable legitimacy by indicating that in several previous instances it was necessary for the royal bloodline of Israel to be passed on via less-than-ordinary means. Bastardy, it may even be suggested, was a badge of honor...)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét