Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012
Bản chất của cạnh tranh bằng phân tích
06:35
Hoàng Phong Nhã
No comments
Năm
1997, một anh chàng chừng 30 tuổi, từng là chuyên gia phần mềm, nhà
cải cách giáo dục và cũng là một người đam mê phim ảnh, đã thuê đĩa
phim Apollo 13 từ chuỗi cửa hàng cho thuê băng đĩa lớn nhất khu vực − Blockbuster,
và phải trả đến 40 đô-la tiền trả đĩa quá hạn (tính theo ngày). Việc
mất thêm tiền khiến anh nảy ra suy nghĩ: tại sao các cửa hàng băng đĩa
không phục vụ như những câu lạc bộ thể hình, nơi các thành viên chỉ
phải trả một khoản tiền phí hàng tháng cố định rồi có thể sử dụng phòng
tập bao nhiêu lâu, bao nhiêu lần tùy thích? Vì chuyện này – lại thêm
việc có được khoản tiền 750 triệu đô-la nhờ bán công ty phần mềm riêng
của mình – Reed Hastings háo hức nhảy vào “lĩnh vực kinh tế mới” và
thành lập tập đoàn Netflix.
Một sự điên rồ chăng? Rốt cuộc, Blockbuster đã
thu về lợi nhuận tới hơn 3 tỷ đô-la mỗi năm nhờ vào hệ thống hàng
nghìn cửa hàng khắp nước Mỹ cũng như nhiều quốc gia khác – và nó cũng
chưa phải là doanh nghiệp cạnh tranh duy nhất trong lĩnh vực này. Liệu
mọi người có thể thuê một đĩa phim qua mạng, sau đó chờ dịch vụ bưu
chính Hoa Kỳ (vào thập niên 1990 còn bị gọi là bưu chính “chậm như
sên”) chuyển đĩa, rồi lại đến thu lại đĩa trả từ hòm thư của họ? Nếu
làm như thế, chắc chắn Netflix sẽ đi theo vết xe đổ của rất nhiều công
ty kinh doanh trên mạng khác, cũng có “mô hình kinh doanh”, có bán hàng, marketing, nhưng không có khách hàng.
Nhưng
như sau này chúng ta đã biết, câu chuyện diễn ra hoàn toàn khác, và
thành công ngày nay của Netflix chủ yếu bắt nguồn từ việc họ thực sự là
một doanh nghiệp cạnh tranh bằng phân tích. Công
ty chuyển phát phim Netflix, với mức tăng trưởng lợi nhuận từ 5 triệu
đô-la năm 1999 lên tới 1 tỷ đô-la vào năm 2006, là một minh chứng tuyệt
vời nhất cho một hãng biết cạnh tranh dựa trên cơ sở toán học, thống
kê và năng lực quản lý dữ liệu. Netflix cung cấp
dịch vụ chuyển phát đĩa DVD miễn phí tới khoảng 6 triệu khách hàng và
cung cấp cả gói dịch vụ nhận đĩa trả về cũng miễn phí. Khách hàng có
thể xem những tác phẩm điện ảnh mình đã chọn vào lúc rảnh rỗi; không hề
bị tính phí trả chậm. Khi đĩa DVD được trả lại, họ sẽ chọn thêm các bộ
phim khác.
Bên
cạnh chuyên môn vận trù mà Netflix cần để biến kế hoạch này thành một
dự án sinh lợi, Netflix cũng khai thác phân tích học theo hai cách chủ
yếu, cả hai cách này đều bị hành vi của khách hàng và các kiểu mua hàng
chi phối. Cách đầu tiên là sử dụng một công cụ cố vấn phim có tên là
Cinematch, được chế tạo dựa trên một phần mềm độc
quyền về giải thuật. Netflix thuê các nhà toán học có kinh nghiệm viết
giải thuật và mã nguồn để xác định các nhóm phim, kết nối những đánh
giá về phim của khách hàng với những nhóm phim này, phân tích hàng
nghìn đánh giá về phim của khách hàng mỗi giây, và xem xét cả những
thói quen của người sử dụng trên các trang web hiện tại – tất cả để đảm
bảo có thể tạo ra một trang web được cá nhân hóa cho phù hợp với từng
khách hàng ghé thăm.
Netflix
còn treo giải 1 triệu đô-la cho nhà phân tích số liệu bên ngoài công
ty nào có thể cải thiện được hiệu năng của giải thuật Cinematch lên
ít nhất 10%. Tổng Giám đốc Điều hành của Netflix, Reed Hastings chia
sẻ: “Nếu bí quyết kinh doanh của Starbucks là nụ cười dành cho bạn khi
bạn gọi một tách cà phê, thì với chúng tôi là những trang web được điều
chỉnh để phù hợp với sở thích của từng cá nhân.” Netflix đã phân tích
những lựa chọn phim của khách hàng và phản hồi của họ về những bộ phim
đã thuê – khoảng trên 1 tỷ phân tích về những bộ phim họ thích, rất
thích, không thích, và nhiều thông tin khác – rồi giới thiệu các bộ
phim nên xem theo cách thỏa mãn cao nhất cả gu phim của khách hàng,
cũng như tình trạng sẵn có của kho phim. Netflix thường giới thiệu các
bộ phim phù hợp với thông tin đăng ký thành viên của khách hàng nhưng
chưa được nhiều người yêu cầu. Nói cách khác, đó chính là thuyết “Cái
đuôi dài (the long tail) – giới hạn ngoài của đường cong phân phối các
sản phẩm được ưa chuộng nhất và đồ thị chào hàng không bao giờ gặp
nhau.”
Netflix
còn tham gia vào một chiến lược còn đang tranh cãi, dựa trên phép phân
tích gọi là tiết lưu (Throttling). “Tiết lưu” được biết đến như một
chiến lược được doanh nghiệp sử dụng để cân bằng việc sắp xếp các yêu
cầu chuyển hàng giữa nhóm khách hàng thường xuyên và khách hàng vãng lai. Khách hàng vãng lai được ưu tiên chuyển
hàng nhanh hơn khách hàng thường xuyên. Có nhiều lý do biện giải cho
cách làm này. Bởi vì phí vận chuyển là miễn phí trong khi phí thành
viên đóng hàng tháng là cố định, vì vậy, khách vãng lai là những người
đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho
Netflix. Như tất cả các công ty khác, Netflix muốn duy trì sự hài lòng
của những khách hàng sinh lợi nhất và giữ chân họ. Và khi mà những
khách thường xuyên cảm thấy không được đối xử công bằng (theo các báo
cáo của Hastings, có một số lượng nhỏ khách hàng than phiền về điều
này), Netflix phải điều chỉnh khả năng vận chuyển cho cả khách hàng
vãng lai lẫn khách quen theo cách đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Hastings sử dụng giải thuật công bằng (fairness algorithm). Gần đây, Netflix phải giải quyết một vụ kiện tập thể liên quan đến việc điều tiết chuyển hàng này, do họ đã quảng cáo rằng gần như mọi yêu cầu về phim sẽ được chuyển phát nhanh trong ngày.
Phân
tích học còn giúp Netflix quyết định đầu tư tiền bản quyền phân phối
đĩa phim DVD cho bộ phim nào. Khi công ty này mua bản quyền phim Favela Rising (Favela
nổi dậy), một phim tài liệu về những nhạc sĩ ở các khu ổ chuột trong
thành phố Rio de Janeiro, ban lãnh đạo của Netflix nhận thấy có tới
hàng triệu khách hàng cũng yêu cầu công ty cho thuê “bộ phim của năm
2003” – City of God (Thành phố của Chúa), một bộ phim
chân thực về các khu ổ chuột ở Rio. Họ còn biết rằng có khoảng 500
nghìn khách hàng cũng đã chọn một bộ phim tài liệu có chút liên quan
tới cuộc sống ở các khu ổ chuột tại Ấn Độ, tên là Born into Brothels (Sinh
ra trong nhà thổ), và có 250 nghìn khách hàng của Netflix hỏi thuê cả
hai bộ phim trên. Do đó, những người mua bản quyền thấy yên lòng khi
trả tiền để mua bản quyền phát hành khoảng 250 nghìn bản. Nếu có nhiều
nhu cầu thuê hơn, cả nhà sản xuất bộ phim Favela Rising và Netflix đều thu lợi.
Tổng
Giám đốc Điều hành của Netflix, Hastings, có bằng thạc sĩ khoa học máy
tính của trường Stanford và từng là cựu giảng viên môn toán của trường
Peace Corps. Công ty đã đem khoa học kỹ thuật áp dụng vào một ngành
công nghiệp đặc biệt giàu tính nghệ thuật. Tờ Business Week viết: “Netflix sử dụng dữ liệu để
đưa ra những quyết định mà các nhà lãnh đạo thường đưa ra dựa trên ý
chí. Trung bình một khách hàng đánh giá khoảng 200 bộ phim, và Netflix
nghiên cứu thông tin về quá trình thuê phim cũng như những đánh giá về
phim của họ để từ đó dự đoán thể loại phim họ sẽ thích… Richard N.
Barton, thành viên ban quản trị Netflix nói: ’Đó giống như
một Moneyball (Quả bóng tiền) cho phim, với những chuyên gia phần mềm
như Reed, nghiên cứu phim cũng không khác gì xem xét một vấn đề dữ liệu
khác’.”
Trong
phân tích của mình, Netflix sử dụng rộng rãi các phương pháp định
lượng và định tính, bao gồm những điều tra cơ bản, phân tích các trang
web của người dùng, phát triển ý tưởng và kiểm nghiệm, đánh giá chiến lược quảng cáo, khai thác dữ liệu,
nghiên cứu về nhận thức thương hiệu, sự hài lòng của người dùng, phân
tích các kênh phân phối, tối ưu hóa marketing, nghiên cứu phân khúc thị
trường và hiệu quả chủ chốt của marketing. Những phân tích này thâm
nhập vào văn hóa công ty cũng như tất cả các mảng, từ marketing đến các
hoạt động điều hành và cả dịch vụ khách hàng.
Định
hướng sử dụng phân tích học của công ty đã đem đến thành công và sự
tăng trưởng. Nhưng công ty còn tính đến việc sử dụng phân tích học để
giúp công ty vượt qua giai đoạn chuyển đổi công nghệ vũ bão. Rõ ràng là
việc phân phối phim rốt cuộc sẽ phải thông qua các kênh phân phối điện
tử – Internet, mạng cáp tín hiệu, và truyền dữ liệu không
dây. Thời gian chính xác cũng như công nghệ giao thoa ra sao chưa thật
rõ ràng lắm, nhưng rõ ràng trong dài hạn việc phân phối DVD qua hệ
thống bưu chính truyền thống sẽ lụi tàn. Tuy nhiên, Netflix muốn dựa
vào phân tích học để phát đạt trong thế giới phân phối ảo. Chỉ cần
Netflix nắm được nhiều thông tin hơn các hãng khác về những bộ phim
khách hàng muốn xem, thì theo logic, người dùng cũng sẽ gắn bó với
Netflix mà không cần quan tâm tới việc bộ phim đó đến tay họ theo cách
nào.
Netflix có vẻ độc đáo, nhưng trên nhiều bình diện, nó là một điển hình của những tổ chức/ doanh nghiệp – nhỏ nhưng phát triển nhanh
chóng – đã nhận ra tiềm năng của phân tích học và xông xáo đi trước
tận dụng tiềm năng đó. Có thể bắt gặp những công ty này trong rất nhiều
lĩnh vực khác nhau. Một số công ty không được biết đến rộng rãi như là
những hãng cạnh tranh bằng phân tích. Số khác,
như tập đoàn giải trí Harrah’s trong lĩnh vực trò chơi hay Oakland A
trong môn bóng chày, đã được vinh danh trên các cuốn sách và tạp chí.
Một vài hãng khác, như Amazon.com, Yahoo! và
Google – những ngôi sao mới nổi gần đây – đã khai thác sức mạnh của
mạng Internet cho các cỗ máy tìm kiếm/phân tích của họ. Những công ty
còn lại như Mars và Procter & Gamble đã tạo nên rất nhiều sản phẩm
tiêu dùng quen thuộc đến hàng thế kỷ hay thậm chí lâu hơn thế. Tất cả
những công ty này chỉ có hai điểm chung: họ cạnh tranh dựa trên nền tảng
khả năng phân tích của mình, và họ đều rất thành công trong ngành của họ. Chúng tôi tin rằng hai điểm này không thể không có liên quan với nhau.
Phân tích học là gì?
Phân tích học là việc sử dụng rộng rãi dữ liệu,
các phân tích thống kê số học, mô hình dự báo và giải thích, cùng với
phương pháp quản lý dựa trên dữ liệu để đưa ra những quyết định và hành
động thích hợp. Phân tích học có thể được sử dụng làm tài liệu cho các
quyết định của con người hoặc tự nó có thể đưa ra các quyết định hoàn
toàn tự động. Phân tích học có thể coi là một phần của các nghiệp vụ xử
lý dữ liệu thông minh (Business Intelligence): một tập hợp các công
nghệ và quy trình xử lý, trong đó sử dụng dữ liệu để đánh giá và phân
tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên
nguyên tắc, có thể thực hiện phân tích học bằng giấy và cây bút chì
hay thước lôga; nhưng ngày nay bất kỳ ai cũng biết ứng dụng công nghệ
thông tin. Hiện có hàng loạt phần mềm phân tích, từ những công cụ tối ưu hóa và thống kê tương đối đơn giản dưới dạng các trang bảng tính (điển hình là MS Excel), hay những bộ công cụ hỗ trợ các nghiệp vụ xử lý dữ liệu thông minh phức tạp (như SAS, Cognos, BusinessObjects), những ứng dụng dự báo kinh doanh (như Fair Issac), cho đến những mô-đun báo cáo và phân tích trong các hệ thống quản trị doanh nghiệp lớn
(như của SAP và Oracle). Và như chúng tôi sẽ còn nói rõ hơn trong cuốn
sách này, việc phân tích tốt cũng đòi hỏi khả năng quản lý thông tin tốt để có thể tích hợp, trích xuất, chuyển đổi và truy cập cơ sở dữ liệu về
các giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp. Một vài người có thể dễ
dàng đánh đồng phân tích học với công nghệ thông tin về phân tích.
Nhưng đây là một nhầm lẫn lớn – như chúng tôi sẽ thảo luận trong suốt
cuốn sách này, chính khía cạnh tổ chức và con người trong cuộc cạnh
tranh bằng phân tích mới là yếu tố phân biệt thật sự.
Tại sao lại cạnh tranh bằng phân tích?
Khi
các công ty ở nhiều lĩnh vực khác nhau cùng đưa ra những sản phẩm
tương tự nhau và cùng sử dụng các công nghệ tương đương thì chỉ những
quy trình kinh doanh có hiệu quả cao mới có thể được xem là những điểm
phân biệt cuối cùng. Rất nhiều lợi thế cạnh tranh trước kia giờ đây không còn nữa. Những lợi thế địa lý độc
đáo không còn nhiều ảnh hưởng trong cuộc chiến cạnh tranh toàn cầu, và
phần lớn luật bảo hộ cũng bị phá bỏ. Những công nghệ độc quyền nhanh chóng bị sao chép, những đổi mới mang tính đột phá về
sản phẩm và dịch vụ thì có vẻ ngày càng khó đạt được. Yếu tố duy nhất
còn lại làm cơ sở cho cạnh tranh chính là việc điều hành doanh nghiệp
của bạn đạt hiệu quả cao và ấn tượng nhất, và làm sao để đưa ra những
quyết định khôn ngoan nhất có thể. Các doanh nghiệp cạnh tranh bằng
phân tích tận dụng triệt để giá trị từ các quy trình kinh doanh cũng như những quyết định chiến lược.
Phân
tích học có thể hỗ trợ tối đa các quy trình kinh doanh của doanh
nghiệp. Dẫu vậy tổ chức nào muốn có được lợi thế cạnh tranh bắt buộc phải có một số đặc điểm riêng mà những doanh nghiệp/ tổ chức khác không có – những khả năng độc đáo. Và chúng thường đòi hỏi một vài kiểu chiến lược kinh doanh và
phương pháp ra quyết định nhất định. Có thể bạn cố gắng kiếm tiền bằng
cách xác định những khách hàng tiềm năng và khách hàng trung thành
chính xác hơn các đối thủ, rồi đưa ra mức giá tối ưu nhất cho sản phẩm
và dịch vụ của bạn. Nếu bạn muốn thực hiện điều đó, phân tích học sẽ
giúp bạn trở thành người giỏi nhất. Có thể bạn bán các sản phẩm tiêu
dùng và muốn ước tính khả năng khan hàng đến mức xấu nhất để ngăn chặn
tình trạng thiếu hàng; nếu thế, phân tích học thường là chiếc chìa khóa
cho việc tối ưu hóa vòng cung ứng sản phẩm. Có thể bạn cạnh tranh nhờ
vào yếu tố con người trong doanh nghiệp và đang cố tìm kiếm để thuê,
giữ chân hay đề bạt những nhân viên xuất sắc nhất trong ngành.
Những mong muốn đó cũng được đáp ứng thông qua phân tích học (mặc dù
mục đích này thường được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực thể thao
chuyên nghiệp và không nhiều trong sản xuất kinh doanh).
Mặt
khác, có thể các quy trình kinh doanh trong hoạt động của bạn không
khác biệt nhiều lắm so với doanh nghiệp khác, thì bạn cũng có thể cạnh
tranh bằng cách đưa ra những quyết định sáng suốt nhất. Bạn có thể chọn
được vị trí tốt nhất để mở cửa hàng – nếu vậy, có lẽ bạn đang thực hiện
việc đó một cách có phân tích. Bạn cũng có thể mở rộng quy mô của công
ty thông qua sáp nhập hoặc mua lại, và bạn chỉ chọn những ứng viên tốt
nhất cho việc này. Theo các báo cáo được công bố rộng rãi, hầu hết các
doanh nghiệp không làm tốt việc này, nhưng bạn thì làm tốt. Nếu vậy,
có lẽ bạn đưa ra các quyết định không dựa vào trực giác. Những quyết
định chính xác thường được đưa ra nhờ sự kết hợp một cách có hệ thống
dữ liệu và quá trình phân tích.
Các doanh nghiệp cạnh tranh bằng phân tích đã ưu tiên chọn ra một hoặc một vài khả năng độc đáo của mình, sau đó xây dựng các chiến lược kinh doanh dựa trên những khả năng đó; họ áp dụng việc khai thác dữ liệu, các phân tích thống kê số học, việc ra quyết định dựa trên thực tế để phát triển những khả năng độc đáo của
mình. Bản thân phân tích học không tạo nên chiến lược kinh doanh,
nhưng sử dụng nó để tối ưu hóa những khả năng độc đáo của doanh nghiệp
lại chắc chắn sẽ cấu thành chiến lược. Dù các khả năng đó có nổi bật
thế nào trong chiến lược kinh doanh thì phân tích học vẫn có thể nâng
tầm chúng lên cao nữa. Ví dụ công ty Capital One đặt tên cho phương pháp cạnh tranh bằng phân tích của
mình là “chiến lược cạnh tranh bằng thông tin”. Các yếu tố cạnh tranh
của Harrah’s là lòng trung thành của khách hàng và hệ thống dịch vụ,
hơn nữa, họ cũng đã tối ưu hóa chúng với chiến lược cạnh tranh bằng
phân tích.
Liệu mọi doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực đều có thể thành công khi cạnh tranh bằng phân tích không?
Đây là một câu hỏi thú vị mà chúng ta có thể tranh luận với nhau. Một
mặt, hầu như bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều có vẻ có tiềm năng cạnh
tranh bằng phân tích. Ví dụ như kinh doanh xi măng, có vẻ là lĩnh vực
rất bình thường và không cần phân tích học như các lĩnh vực khác. Nhưng
một hãng xi măng lớn là CEMEX đã rất thành công khi áp dụng phân tích học cho những khả năng độc đáo của hãng để tối ưu hóa chuỗi cung ứng và thời gian giao nhận hàng.
Mặt
khác, một số ngành hay lĩnh vực phù hợp với việc áp dụng phân tích học
hơn hẳn so với những lĩnh vực khác. Nếu doanh nghiệp của bạn tạo ra
rất nhiều dữ liệu giao dịch –
chẳng hạn như các dịch vụ tài chính, du lịch và vận tải, hay lĩnh vực
trò chơi giải trí – cạnh tranh bằng phân tích hẳn là một chiến lược kinh doanh bắt buộc (mặc dù vậy vẫn có nhiều hãng chưa áp dụng). Nếu mô hình kinh doanh của
bạn lại dựa trên những yếu tố khó có thể đo lường – chẳng hạn như kiểu
dáng trong thời trang, hay các mối quan hệ của con người, như trong
ngành nghiên cứu việc điều hành doanh nghiệp – thì sẽ phải tốn nhiều
công sức chuẩn bị hơn để có thể cạnh tranh bằng phân tích. Dù vậy, hàng
ngày chúng ta đều có thể bắt gặp những ví dụ về các doanh nghiệp trước
đây kinh doanh dựa trên trực giác, nhưng giờ đang chuyển mình vào thế
giới của phân tích học. Ví dụ một công ty kinh doanh rượu đã từng
(trong vài quý) quá nghiêng về trực giác và dựa vào những thị hiếu
người tiêu dùng thể tiên đoán. Tuy nhiên, ngày nay, có thể phân tích số
lượng cũng như dự đoán sức thu hút của tất cả các loại rượu; và những
nhà sản xuất rượu lớn như E. & J. Gallo đang thực hiện cạnh tranh bằng phân tích trong lĩnh vực bán hàng và nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng.
Chúng ta đã đến đây như thế nào? Nguồn gốc của cạnh tranh bằng phân tích
Rõ ràng, thế giới đang chuyển mình theo hướng cạnh tranh bằng phân tích của
các tổ chức. Chính vào lúc các nhà quản trị doanh nghiệp đang tiếp tục
tìm kiếm những yếu tố tạo nên lợi thế và sự khác biệt, họ cũng nắm
được nhiều thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
hơn bao giờ hết. Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP), các hệ thống hỗ trợ bán lẻ (POS), hay các trang web, cùng với các nguồn khác đã tạo ra dữ liệu giao
dịch nhiều và tốt hơn hẳn so với dữ liệu trong lịch sử nhân loại. Một
thế hệ mới các nhà quản trị doanh nghiệp có kiến thức kỹ thuật –
thế hệ đầu tiên trưởng thành cùng với máy tính – đang gia nhập các
doanh nghiệp và tìm kiếm những phương pháp quản trị mới với sự hỗ trợ
của công nghệ. Rốt cuộc, khả năng tận dụng việc khai thác thông tin nhờ
máy tính và các phần mềm ứng dụng đã chín muồi. Trong vài năm qua, các
nhà sản xuất phần mềm phân tích liên
tục mở rộng các tính năng của sản phẩm, trong khi các nhà cung cấp
thiết bị phần cứng cũng tiến hành tối ưu hóa công nghệ để tăng cường
khả năng phân tích nhanh cũng như quản lý các cơ sở dữ liệu lớn.
Ban
đầu, phân tích học chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, thất thường, được thực
hiện trong một vài nghiệp vụ kinh doanh sử dụng nhiều dữ liệu. Vào nửa cuối thập kỷ 1960, các bác sĩ và nhà nghiên cứu thử nghiệm sử dụng máy tính để phân tích dữ liệu và hỗ trợ việc ra quyết định. Các hệ thống đó được gọi là các hệ hỗ trợ quyết định (Decision Support Systems – DSS),
các hệ thống này được ứng dụng trong các hoạt động có tính phân tích,
hoặc lặp đi lặp lại hay mang tính ứng dụng hẹp chẳng hạn như hoạch định
sản xuất, quản lý danh mục vốn đầu tư và các thủ tục vận tải. Hai nhà
tiên phong trong hệ thống hỗ trợ quyết định là Peter Keen và Charles
Stabell, cho rằng, ý tưởng đầu tiên về hệ hỗ trợ quyết định được hình
thành từ những nghiên cứu tại trung tâm công nghệ Carnegie Tech (nay là
Carnegie Mellon) bởi một số nhà nghiên cứu như Herbert Simon trong
những năm cuối của thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960, cùng với những
nghiên cứu về các hệ thống máy tính tương tác, chủ yếu được thực hiện ở
MIT trong những năm 1960. Một số người lại cho rằng nguồn gốc của
chúng liên quan chặt chẽ đến những ứng dụng quân sự trong và sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, mặc dù máy tính điện tử hồi đó không sẵn cho
những ứng dụng kiểu như vậy.
Việc
phân tích thống kê trên máy tính đã trở thành hoạt động chủ đạo trong
những năm 1970, khi mà các công ty, như SAS Institute và
SPSS, giới thiệu các gói phần mềm ứng dụng giúp việc truy cập thông
tin thống kê trở nên dễ tiếp cận hơn với các nhà nghiên cứu và doanh
nhân. Vào giai đoạn đó, bất chấp việc thống kê đã trở nên phổ biến hơn
nhiều, hệ hỗ trợ quyết định vẫn không mang lại thành công và không thể trở thành hệ thống hỗ trợ điều hành. Những ứng dụng này đòi hỏi các nhà quản lý cao cấp trực tiếp sử dụng máy tính và dữ liệu để theo dõi và báo cáo hiệu quả kinh doanh (ít
nhấn mạnh vào việc ra quyết định hơn). Hoạt động này cũng chưa bao giờ
được ứng dụng rộng rãi, một phần do sự chần chừ của các nhà quản lý
trong việc tập sử dụng.
Công
nghệ phân tích được sử dụng phổ biến nhất trong việc lưu trữ lượng nhỏ
thông tin và chỉ đạo các truy vấn đặc biệt trong việc hỗ trợ quyết
định và theo dõi hiệu quả kinh doanh. Việc tập trung vào quản lý dữ liệu trở
nên đặc biệt quan trọng khi mà lượng dữ liệu rất lớn có thể thu được
từ các hệ thống quản trị giao dịch như các hệ thống hoạch định nguồn
lực doanh nghiệp (ERP) hay hệ hỗ trợ bán lẻ (POS), và sau này là các
giao dịch qua mạng Internet. Các dạng tập trung hướng vào dữ liệu này được biết đến như OLAP (xử lý dữ liệu phân tích trực tuyến) và sau này là kho dữ liệu (data warehousing). Những kho dữ liệu nhỏ hơn còn được gọi là các trung tâm dữ liệu (data marts).
Như đã đề cập ở trên, ngày nay, toàn bộ các hệ thống trên được gọi bằng thuật ngữ “các nghiệp vụ xử lý dữ liệu thông
minh” (Business Intelligence), một hệ thống kết hợp chặt chẽ các tập
hợp dữ liệu định hướng quyết định, phương pháp quản lý và báo cáo, cũng
như các công nghệ phân tích và
phương pháp tính toán được thực hiện trên dữ liệu đó. Trí tuệ doanh
nghiệp về tổng quan là một mảng rộng và phổ biến trong ngành công nghệ
thông tin – trên thực tế,
một cuộc khảo sát của Gartner vào năm 2006 đối với 1.400 trưởng phòng
thông tin chỉ ra rằng các nghiệp vụ xử lý dữ liệu thông minh là công
nghệ ưu tiên số một cho các
tổ chức doanh nghiệp công nghệ thông tin. Hai nghiên cứu trên các tổ
chức doanh nghiệp lớn có sử dụng các hệ hoạch định nguồn lực doanh
nghiệp (ERP) thực hiện năm 2002 và 2006 cho thấy khả năng ra quyết định
chính xác là lợi ích hàng đầu được các doanh nghiệp tìm kiếm và (khảo
sát năm 2006) phân tích học là công nghệ được theo đuổi nhiều nhất để
tận dụng lợi thế của dữ liệu có được từ ERP.
Mặc
dù có sự biến đổi về thuật ngữ, những xu hướng này – mỗi xu hướng tồn
tại khoảng một thập kỷ – đều có những thuộc tính chung. Tất cả đều tập
trung vào việc chỉ rõ khả năng của máy tính có thể giúp lưu trữ, phân
tích, hiển thị dữ liệu và
hiển thị kết quả của phân tích. Chúng chỉ tập trung vào những vấn đề
tương đối hẹp – ngoại trừ các hệ thống quản trị và theo dõi hiệu quả
kinh doanh, chỉ biểu thị
tình hình của doanh nghiệp. Chúng còn được giao thẳng cho những “phòng
ban hậu cần” (back office) của doanh nghiệp – được vận hành bởi những
kỹ thuật viên và các chuyên gia, nơi các quản lý cao cấp chỉ dành chút
ít sự quan tâm. Với rất ít ngoại lệ, khó có thể nói chúng tác động đến
cốt lõi của cạnh tranh.
Ngày
nay, đa số các doanh nghiệp lớn đều có một vài loại phần mềm ứng dụng
phân tích tại chỗ và các công cụ hỗ trợ các nghiệp vụ xử lý dữ liệu
thông minh được cài đặt.
Nhưng chúng chỉ được coi là những công cụ ngoài lề trong sự thành công
của doanh nghiệp và được quản lý ở cấp độ hành chính. Ví dụ như ở một
công ty bảo hiểm, có thể trang bị một vài công cụ
phân tích cho phòng thống kê bảo hiểm, nơi định giá cho các chính
sách. Một hãng sản xuất thì có lẽ sẽ sử dụng những công cụ như vậy cho
việc quản lý chất lượng. Các công ty marketing có thể có được khả năng
phân tích giá trị khách
hàng. Tuy nhiên, dù các hoạt động đó có lợi đến đâu, chúng cũng không
được các nhà quản lý cao cấp, khách hàng và cổ đông nhìn nhận đúng – và
đương nhiên chúng không thể được coi là có vai trò quyết định đối với
các chiến lược cạnh tranh của công ty. Chúng quan trọng với từng bộ
phận riêng lẻ trong công ty, nhưng lại bị coi là không đáng kể so với
toàn bộ khả năng cạnh tranh của công ty.
Tuy nhiên, trong cuốn sách này, chúng ta chỉ tập trung vào các công ty biết đánh giá đúng và nâng việc quản lý dữ liệu, phân tích số học và thống kê, việc ra quyết định dựa trên thực tế lên tầm một nghệ thuật cao cấp. Các tổ chức này có những hoạt động phân tích rất
minh bạch; thông tin có thể được cung cấp cho từng cổ đông và những
nhóm quan tâm thông qua giám đốc điều hành. Thay vì vận hành trong
những phòng ban hậu cần chẳng ai biết đến, có thể dễ dàng tìm thấy phân
tích học của những công ty đó trong các báo cáo thường niên hay trên
các bài báo. Các tổ chức này thu thập thông tin từ những nguồn mà mọi
người đều có thể tiếp cận, sau đó gạn lọc chúng đến một mức độ đủ để
dựa vào đó mà xây dựng các chiến lược kinh doanh của họ.
Khi nào thì các quyết định dựa trên phân tích là thích hợp?
Nhiều
bằng cứ cho thấy việc ra các quyết định dựa trên phân tích học có vẻ
chính xác hơn là những quyết định dựa trên trực giác. Biết sẽ tốt hơn –
ít nhất là trong giới hạn dữ liệu cùng
các phân tích – tin, suy nghĩ hay cảm giác, và phần lớn các công ty
đều có thể kiếm lợi nhiều hơn từ những quyết định dựa trên phân tích.
Tất nhiên là vẫn có những trường hợp mà các quyết định không thể, hoặc
không nên dựa vào phân tích. Một vài trường hợp đó được đề cập tới
trong cuốn sách nổi tiếng của Malcolm Gladwell − Blink (Trong chớp mắt), một cuốn sách ngợi ca những quyết định dựa vào trực giác. Có vẻ thật hài hước khi cuốn sách tán dương trực giác và cho rằng các quyết định dựa trên trực giác sẽ phát triển và
trở nên phổ biến trong khi có tổ chức đang phụ thuộc rất nhiều vào
phân tích học, nhưng có lẽ đó là một phần mong muốn ảo tưởng của cuốn
sách. Cuốn sách viết rất hài hước và thuyết phục, nhưng nó không chỉ rõ
vấn đề là trực giác chỉ thích hợp với một số hoàn cảnh nhất định.
Gladwell hoàn toàn đúng, chẳng hạn như loài người tiến hóa khả năng ra
các quyết định nhanh chóng và chính xác về tính cách cũng như ý định
của người khác, và trong trường hợp này hiếm khi phân tích học ưu việt
bằng trực giác. Dẫu vậy Gladwell vẫn cho rằng trực giác của con người
sẽ chỉ là kim chỉ nam cho hành động khi nó là kết quả của nhiều năm kinh
nghiệm. Và rất nhiều ví dụ của Gladwell về trực giác chỉ có thể áp
dụng khi đã có nền tảng hàng năm trời nghiên cứu mang tính phân tích,
chẳng hạn như những phán đoán nhanh và có vẻ mang tính trực giác của
Tiến sĩ John Gottsman về việc liệu các đôi đã cưới nhau mà ông theo dõi
có sống được với nhau không. Ông chỉ có thể đưa ra những đánh giá đó
sau khi đã theo dõi và phân tích thống kê hàng nghìn giờ xem băng ghi
hình các đôi cư xử với nhau.
Rõ ràng là những người phải ra quyết định nhiều khi buộc
phải sử dụng trực giác khi họ không có thông tin mà vẫn phải đưa ra
quyết định nhanh chóng – như trong ví dụ của Gladwell về các nhân viên
cảnh sát phải quyết định có bắn kẻ tình nghi hay không. Gary Klein, tư
vấn viên về ra quyết định, cũng có những luận điểm tương tự về những
người lính cứu hỏa khi di chuyển trong tòa nhà đang bốc cháy. Thậm chí
có những hãng về cơ bản sử dụng phân tích học nhưng thỉnh thoảng cũng
phải cần đến trực giác khi họ không có dữ liệu tham khảo. Ví dụ, Jeff Bezos, Tổng Giám đốc Điều hành của Amazon.com,
rất ưa chuộng việc tiến hành các cuộc kiểm chứng có giới hạn đối với
những tính năng mới của Amazon.com, đo lường kĩ lưỡng phản ứng của
người dùng trước khi đưa chúng vào hoạt động. Nhưng tính năng “tìm kiếm
nội dung sách” (Search Inside the Book) của công ty không thể đánh giá
kiểm tra được nếu không áp dụng trên lượng đầu sách khổng lồ
(Amazon.com khởi nghiệp đã có 120 nghìn đầu sách). Chi phí phát triển cũng
quá tốn kém và tăng khả năng rủi ro. Trong trường hợp này, Bezos đã
tin vào bản năng của mình và đánh liều thực hiện. Sau khi ra đời, tính
năng này đã chứng minh là được nhiều người yêu thích.
Tất nhiên, bất cứ phân tích số học nào
cũng phải dựa trên một loạt giả định. Khi các điều kiện của những giả
định này không còn đúng nữa, thì các kết quả phân tích cũng không thể
đem áp dụng. Ví dụ như công ty Capital One và
một số công ty kinh doanh thẻ tín dụng khác đã đưa ra những dự báo
mang tính phân tích về sự sẵn sàng trả nợ tín dụng của khách hàng trong
tình hình kinh tế phát triển thịnh
vượng. Nếu nền kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng, thì những dự báo này
sẽ không thể được đem ra áp dụng nữa, và thật nguy hiểm nếu vẫn tiếp
tục sử dụng những phân tích dự báo này.
Điều
quan trọng nhất là giới hạn của việc ra các quyết định mang tính phân
tích vẫn không ngừng được mở rộng. Phạm vi của việc ra quyết định phù
hợp với dữ liệu trực
quan và những phân tích khắt khe theo thời gian, cùng với trực giác
vẫn chưa được phát huy tối đa. Ví dụ, ngày nay, một số giám đốc điều
hành cho rằng vẫn có thể đưa ra các quyết định quan trọng trong việc
sáp nhập hoặc mua lại dựa trên trực giác. Tuy nhiên, những công ty giỏi
nhất lại biết sử dụng các kết quả phân tích chi tiết để đưa ra quyết
định. Ví dụ, hãng Procter & Gamble, đã sử dụng rất nhiều công nghệ
phân tích khác nhau trước khi mua lại Gillette,
bao gồm cả hậu cần, vòng cung ứng, những yếu tố chi phối thị giá cổ
phiếu, và nhân lực. Trong vài năm tới, hãng nào không biết tận dụng
rộng rãi phân tích học trong các quyết định mua lại quan trọng sẽ bị
xem là vô trách nhiệm.
Xu hướng này đang gần như bao trùm lên toàn bộ các doanh nghiệp. Số lượng dữ liệu sẵn
có cũng không ngừng tăng lên. Các thiết bị xác định thông tin qua tần
số radio (RFID – Radio-Frequency Identification) sẽ được cấy lên các
tấm nâng hàng hay các hộp các-tông để được chuyển đi khắp nơi theo vòng
cung ứng, sinh ra rất nhiều dữ liệu truyền về để công ty thu thập và
phân tích. Cụ thể hơn, mỗi một xe vận chuyển hàng sẽ đủ thông minh để
thu thập dữ liệu về “hướng lựa chọn”, hoặc những bản ghi thông tin về
danh sách các sản phẩm được nhặt khỏi giá bày hàng theo một thứ tự nào
đó. Trong ngành công nghiệp khai khoáng, lượng dữ liệu khổng lồ – vốn đã rất lớn – sẽ còn được mở rộng theo từng vùng địa lý. Trong lĩnh vực quảng cáo,
việc ngày càng nhiều doanh nghiệp chuyển sang các phương tiện truyền
thông đại chúng như mạng Internet, truyền hình cáp, từ đó có thể theo
dõi xem quảng cáo nào được đối tượng khán giả nào xem – một lần nữa lại
sản sinh một lượng lớn luồng dữ liệu mới.
Các phần mềm phân tích ngày càng sẵn có và được phân phối rộng rãi đến tất cả các tổ chức/doanh nghiệp. Các công ty phần mềm chuyên về thống kê như
SAS hay SPSS đã tạo ra hàng loạt phân tích rất phức tạp cho phần lớn
các công ty và người dùng trong 30 năm qua, và họ vẫn tiếp tục phát
triển. Những công ty chuyên về hỗ trợ các nghiệp vụ xử lý dữ liệu thông minh như
SAS, Business Objects và Cognos thì tiếp tục bổ sung những chức năng
phân tích cho các bộ công cụ của họ. Những phần mềm ứng dụng mới xuất
hiện nhắm tới những khả năng khác nhau của doanh nghiệp sẽ được trình
làng bởi những đại lý phân phối như tập đoàn Fair Issac. Những nhà phân
phối hệ thống phần mềm doanh nghiệp khác như SAP và Oracle ngày càng
hiện thực hóa khả năng phân tích hệ thống dữ liệu kinh doanh và theo dõi hiệu quả kinh doanh.
Và cả Microsoft cũng đang tích hợp khả năng phân tích vào bộ công cụ
văn phòng chuẩn. Trong tương lai, tính năng phần mềm không còn là vấn
đề trong việc cạnh tranh bằng phân tích nữa, mặc dù việc sử dụng tốt những phần mềm ứng dụng phân tích chưa bao giờ là việc dễ dàng.
Có
thể cho rằng phần cứng cũng không phải là vấn đề. Ngày nay, thì bộ vi
xử lý 64 bit của Intel và các hãng khác đều có thể thực hiện phân tích
số học trên những tập hợp dữ liệu lớn
được xem như những công nghệ hàng đầu, nhưng chúng cũng không tồn tại
lâu. Các máy tính chuyên dụng khác được các hãng như Teradata và
Netezza cung cấp cũng có thể dễ dàng quản lý hàng tỷ byte dữ liệu từ
những kho dữ liệu. Không nghi ngờ gì nữa, trong tương lai gần, hệ thống
máy tính cá nhân cũng có thể thực hiện những phân tích quan trọng. Vấn
đề lớn nhất lại là làm sao các tổ chức có thể quản lý được dữ liệu và
các phân tích của họ, đồng thời đảm bảo từng cá nhân người dùng có thể
đưa ra các quyết định dựa trên những phân tích và giả định đúng đắn.
Tuy nhiên, để duy trì cạnh tranh bằng phân tích, các doanh nghiệp phải luôn dẫn đầu về công nghệ. Các doanh nghiệp cạnh tranh bằng phân tích sẽ phải luôn đặt mình vào một cuộc chạy đua vũ trang, yêu cầu liên tục phát triển những
tiêu chuẩn đánh giá, giải thuật mới và những phương pháp ra quyết định
mới. Các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược cạnh tranh này phải loại bỏ
một cách có hệ thống những quyết định có tính phỏng đoán ra khỏi quy
trình và mô hình kinh doanh của
mình. Các doanh nghiệp cạnh tranh bằng phân tích sẽ phải hướng những
phân tích theo nhiều khía cạnh của hoạt động sản xuất kinh doanh và học
hỏi từ những khía cạnh đó. Để những quyết định mang tính định lượng
được thực hiện hiệu quả, những phân tích sẽ phải là kết quả của trí tuệ
tập thể, thay vì chỉ xuất phát từ ý kiến chuyên gia của các vị “bác
học”.
Chúng tôi đã thiết kế sơ đồ chỉ dẫn các bước chính để xây dựng một doanh nghiệp cạnh tranh bằng phân tích một cách hiệu quả. Điều này đòi hỏi những điều kiện tiên quyết, chẳng hạn như tối thiểu phải có một lượng dữ liệu vừa
phải, đủ chất lượng về những lĩnh vực kinh doanh mà phân tích học có
thể hỗ trợ, cũng như phải có đủ phần cứng và phần mềm tốt trong tay.
Tuy nhiên, còn một yếu tố quan trọng khác là con người. Một điều kiện tiên quyết là người giám đốc phải thật sự tận tụy với phân tích học để có thể phát triển các
ý tưởng. Nhưng còn một nhân tố quan trọng nữa tác động đến tốc độ và
chất lượng kết quả thực hiện của doanh nghiệp, đó là sự hậu thuẫn.
Những hãng như Netflix, Harrah’s, và Capital One có sự hậu thuẫn ở tầm giám đốc điều hành,
và thậm chí, niềm đam mê với phân tích học còn giúp họ tiến lên “với
tất cả tinh thần và lực lượng” trên con đường tiến tới thành công.
Những
tổ chức còn thiếu sự hậu thuẫn của ban điều hành đầy nhiệt huyết,
trước hết sẽ phải vượt qua được “bước đi chứng minh” để khẳng định giá
trị của cạnh tranh bằng phân tích.
Quá trình này sẽ chậm hơn, và những ai phải trải qua bước đi chứng
minh cuối cùng cũng trở thành những người hậu thuẫn điều hành lớn nếu
họ trở thành những doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bằng phân tích.
Chúng tôi sẽ bàn về sơ đồ chỉ dẫn thực hiện – và từng bước trên hai còn
đường này – một cách rất chi tiết trong phần II của cuốn sách (cụ thể
là trong Chương 6). Hiện tại, chúng tôi chỉ đơn giản muốn nhấn mạnh
rằng mặc dù có vẻ như phân tích học vẫn chưa được quan tâm đầy đủ và bị
phụ thuộc vào máy tính, nhưng những nhân tố quan trọng nhất dẫn tới
thành công luôn đòi hỏi những con người có niềm đam mê.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét