*
Vì sao Coca-Cola, Disney, Intel... lại là những đơn vị tiên phong so
với các đối thủ cạnh tranh trong việc nhận biết những vùng lợi nhuận
luôn thay đổi?
"Vùng lợi nhuận
là cuốn sách hấp dẫn mà các nhà quản lý sẽ cầu nguyện để các đối thủ
của mình đừng bao giờ đọc nó." Richard D'aveni, Trường quản trị kinh
doanh Amos Tuck.
LỢI NHUẬN ĐƯỢC TẠO RA NHƯ THẾ NÀO?
Mười
công ty kinh doanh có lời nhất mà bạn biết là những công ty nào? Tại
sao họ lại có thể thu lợi nhuận cao như vậy? Những lí do có trùng nhau
không?
Tất
cả chúng ta đều biết rằng khả năng sinh lời là rất quan trọng. Những
bản báo cáo lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận/giá cả (P/E) là những nhắc nhở
hàng ngày về sự nổi bật của nó. Tuy nhiên, nhiều công ty không vận hành
dựa trên sự hiểu biết thông thường về khả năng sinh lời hoạt động như
thế nào trong công việc kinh doanh của họ.
Trong
thế giới kinh doanh lấy sản phẩm làm trung tâm, lợi nhuận là kết quả
của một thị phần lớn mạnh. Các công ty tập trung vào một mục tiêu duy
nhất: bán nhiều, cho bất kỳ ai sẵn sàng bỏ tiền mua. Các công ty tạo ra
doanh thu trên mỗi đơn vị được bán ra. Công ty giành lợi nhuận như thế
nào từ doanh số đó là tất cả và là một điều tất yếu.. Ngày nay, lợi
nhuận không được phát sinh đơn thuần từ những sản phẩm mà một công ty
bán ra và lợi nhuận cũng không phải là điều hiển nhiên. Ngày nay, lợi
nhuận là kết quả của một mô hình kinh doanh thông minh. Trong thực tế,
chiều kích nắm bắt giá trị của mô hình kinh doanh- chiều kích “tôi sẽ có lợi bằng cách nào? ”
là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Nếu không có những hiểu biết
sâu sắc về việc thu được lợi nhuận như thế nào và hoạt động kinh doanh
phải được thiết kế ra sao để nắm bắt được lợi nhuận đó thì bạn sẽ không
thu được bất kỳ lợi nhuận nào.
Kết
nối và thiết kế mô hình lợi nhuận hiện đang là một kĩ năng chiến lược
quan trọng. Những mô hình lợi nhuận được miêu tả trong chương này chỉ ra
rằng có nhiều cách khác nhau để giải quyết vấn đề “lợi nhuận thu được qua mô hình”.
Đừng tiến hành một hoạt động đầu tư quan trọng nào cho đến khi bạn hài
lòng với chính mình rằng công ty đã nhận biết chính xác nó sẽ tạo ra lợi
nhuận như thế nào và những hành động chiến thuật phù hợp là cần thiết
để thực hiện việc đó.
Khả
năng lợi nhuận là một hiện tượng rất phức tạp. Làm thế nào và tại sao
mà lợi nhuận được sinh ra một cách khác nhau từ lĩnh vực này đến lĩnh
vực khác hoặc từ công ty này đến công ty khác? Có ít nhất 22 mô hình lợi
nhuận giúp chúng ta hiểu được cách thức mà các công ty thu được lợi
nhuận trong các hoạt động kinh doanh khác nhau.
Trong
một vài năm tới sẽ còn có thêm nhiều những mô hình mới có thể được khám
phá. Và, trong những ngành kinh doanh cụ thể, sự ảnh hưởng tác động lẫn
nhau của hai hay nhiều mô hình giải thích lợi nhuận đang thực sự diễn
ra trong các ngành kinh doanh như thế nào.
Việc
xem xét những mô hình kinh doanh khác nhau này cho thấy cơ chế khả năng
sinh lợi có thể khác nhau như thế nào. Nó cũng thể hiện vai trò trung
tâm của khách hàng - xét về khía cạnh phí tổn mua sắm, hành vi mua, độ
nhạy cảm giá, quyền lực trong mặc cả và nhiều vấn đề khác nữa - trong cơ
chế hoạt động của mỗi mô hình.
MÔ HÌNH KINH DOANH LẤY LỢI NHUẬN LÀM TRUNG TÂM
Ngày
nay, một trong những câu hỏi hữu ích nhất mà bạn có thể hỏi tổ chức
của mình là: Mô hình lợi nhuận của chúng ta là gì? Làm thế nào chúng ta
có thể kiếm được tiền?
Trước
đây, tư duy lấy lợi nhuận làm trung tâm không phải là phần trọng tâm
trong quy trình chiến lược bởi vì nó chưa thực sự cần thiết. Những
nguyên tắc kinh điển về chiến lược cho rằng “Bằng việc giành thị phần,
bạn sẽ có được lợi nhuận”. Theo kinh nghiệm, đây chính là nguyên tắc chủ
đạo cho hầu hết các ngành kinh doanh. Yếu tố trọng tâm - vấn đề
chính trong chiến lược - không phải là lợi nhuận mà là thị phần. Điều đó
dẫn đến kết quả là: bạn có thể tạo ra và giành lấy lợi thế cạnh tranh.
Sau đó, lợi thế cạnh tranh sẽ giúp công ty giành lấy thị phần. Việc
giành được thị phần sẽ khiến cho lợi nhuận của công ty tăng lên đáng kể.
Trong
thập kỷ trước, những nguyên tắc kinh điển này của chiến lược đã bị phá
vỡ. Mối quan hệ mật thiết giữa việc dẫn đầu về thị phần và khả năng đem
lại siêu lợi nhuận đã bị sụp đổ. Bạn hãy xem lại một số ví dụ từ Chương
1: IBM, GM, Sears, Kodak, US Steel, United Airlines. Danh sách thực sự
cũng khá dài. Những hãng đó có dẫn đầu về thị phần không? Có. Nhưng
chúng có lợi nhuận không? Không.
Điều
gì đã xảy ra? Tại sao những hãng dẫn đầu về thị phần lại thất bại trong
việc giành lấy những lợi nhuận bền vững từ vị thế của họ? Quy luật đã
thay đổi. Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và sự đổ bộ ồ ạt của
nguồn vốn đầu tư mạo hiểm đã phá vỡ những rào cản để gia nhập và giảm
chi phí cần thiết trong nhiều ngành kinh doanh. Trong môi trường mới,
thị phần khổng lồ với một mô hình kinh doanh sai lầm là một trở ngại
chứ không phải là lợi thế. Trong thế giới mới lấy lợi nhuận làm trung
tâm, thị phần lớn không phải là vấn đề. Vấn đề là bạn phải hiểu nơi mà
bạn có thể tạo ra lợi nhuận trong ngành của mình. Trong vùng lợi nhuận
tiềm năng đó, mô hình kinh doanh của bạn có thực sự đáp ứng được những
gì khách hàng mong muốn và sẵn sàng chi trả? Mô hình kinh doanh của bạn
có đạt hiệu quả về chi phí để mang lại lợi nhuận hay không?
Trong
thời đại lấy sản phẩm làm trung tâm, câu hỏi quan trọng đặt ra là :
“Làm thế nào tôi có thể giành được thị phần, tăng số lượng hàng bán và
giành lấy hiệu quả kinh tế theo quy mô?” Tuy nhiên, trong thời đại mới
với sự thay đổi nhanh chóng của giá trị thị trường từ cuối thập niên 80,
câu hỏi đặt ra hoàn toàn khác:
- Tôi sẽ được phép tạo ra lợi nhuận ở đâu trong nền công nghiệp này?
- Tôi nên thiết kế mô hình kinh doanh của mình như thế nào để nó có thể tạo ra được lợi nhuận?
Cuốn
sách này sẽ miêu tả mười một mô hình lợi nhuận. Mỗi mô hình có những
khuôn mẫu và chiến lược kinh doanh khác nhau mà bạn có thể sử dụng chúng
để chuyển công ty của bạn vào vùng lợi nhuận.
- Mô hình lợi nhuận phát triển khách hàng/ giải pháp khách hàng
Những
công ty ứng dụng mô hình phát triển khách hàng đầu tư rất lớn vào việc
tìm hiểu những tiêu chí kinh tế của khách hàng và tìm cách để khiến
chúng trở nên triển vọng hơn. Trước tiên họ tiến tới vùng lợi nhuận bằng
cách tìm hiểu làm thế nào khách hàng mua và sử dụng những sản phẩm của
họ, sau đó tìm cách - vượt xa việc bán sản phẩm một cách đơn thuần - để
giúp các khách hàng trong những khía cạnh khó khăn, đắt đỏ hay mất thời
gian trong quy trình của họ. Phương pháp mà qua đó khách hàng được phát
triển sẽ chứng tỏ khả năng sinh lợi của các công ty.
Factset
– nhà cung cấp những dịch vụ thông tin tài chính là một công ty ứng
dụng mô hình phát triển khách hàng. Chiến lược của Factset là đầu tư vào
khách hàng theo phương pháp trích phí mua trên những khoản góp đầu
tiên. Factset đã trải qua giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ phát triển
khách hàng một cách phi thường, vì vậy nó có thể hiểu được những vấn đề
của khách hàng. Tiếp theo, nó biến đổi những sản phẩm của riêng nó phù
hợp nhất có thể với tình hình tài chính của các khách hàng và sau đó đưa
những sản phẩm của nó vào sâu trong cơ cấu hoạt động của khách hàng.
Ban đầu, luồng tiền mặt bị âm nhưng chỉ trong vòng một vài tháng, nó
biến đổi một cách đáng kể, từ âm thành dương. Chi phí để duy trì những
mối quan hệ khách hàng thấp và tỷ lệ khách hàng tiếp tục là khá cao. Sự
lựa chọn khách hàng và đầu tư của khách hàng theo phí ban đầu là những
phương pháp để tạo nên những khách hàng liên tục - nhân tố quyết định
lợi nhuận.
Một
số hãng thành công khác trong việc ứng dụng những nguyên tắc của mô
hình phát triển khách hàng bao gồm Nordstrom, the United States Auto
Association (USAA), Intuit, Northwestern Life và Leo Burnett. Tất cả họ
đều đã phát triển tính liên tục của khách hàng cao hơn đáng kể những
đối thủ cạnh tranh khác và kết quả là mức độ lợi nhuận bền vững của họ
cũng cao hơn.
Trong
Chương 4 và 5, chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu hơn về sự thành công của
General Electric, Madden Communications, Cardboard Box Inc., và Sandoz
Pharmaceuticals trong việc ứng dụng mô hình giải pháp khách hàng.
2. Mô hình lợi nhuận kim tự tháp sản phẩm
Không
giống như mô hình phát triển khách hàng với những tiêu chí kinh tế của
khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, trong mô hình lợi nhuận kim tự
tháp khách hàng, sự ưa thích của khách hàng về phong cách, màu sắc, giá
cả … là những yếu tố hết sức quan trọng. Sự khác nhau về thu nhập và sở
thích của khách hàng là cơ sở để xây dựng những kim tự tháp sản phẩm.
Chúng tồn tại trong những thị trường hay thay đổi như sản xuất đồng hồ,
bán hàng tự động và thẻ tín dụng. Ở đáy tháp là những sản phẩm giá rẻ
với số lượng lớn. Trên đỉnh tháp là những sản phẩm giá cao với số lượng
ít.
Lợi
nhuận được tập trung ở đỉnh của kim tự tháp sản phẩm, nhưng chân đế của
mỗi tháp lại đóng vai trò chiến lược quan trọng trong hệ thống. Những
nhà thiết kế kinh doanh sắc sảo như Swatch hay Mattel, đã xây dựng nên
một thương hiệu “tường lửa” ở đáy của kim tự tháp: Một thương hiệu vững
mạnh, giá rẻ và tạo ra lợi nhuận nhưng không nhiều. Mục đích của thương
hiệu này là để ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh và nhờ đó
có thể bảo vệ mức lợi nhuận khổng lồ ở đỉnh tháp.
Ví
dụ như Matter đã sản xuất một loại búp bê Barbie giá rẻ để (1) không
còn khoảng không gian mở cho các đối thủ khác và (2) bảo vệ bộ sưu tập
búp bê đặc biệt với giá $200 ở đỉnh kim tự tháp. Tương tự như vậy,
Công ty sản xuất đồng hồ Thụy Sĩ SMH đã phát triển một thương hiệu
Swatch siêu rẻ, nhưng được thiết kế để có thể mang lại lợi nhuận. Điều
này làm hạn chế khả năng của các đối thủ cạnh tranh để thiết lập nên vị
trí cần thiết tấn công những thương hiệu giá cao trong hệ thống SMH
(Blancpain, Omega, Longines, Rado) mà hầu hết lợi nhuận của công ty nằm ở
đó. (Seiko gần đây đã thông báo rằng nó sẽ không đầu tư tập trung mạnh
vào đồng hồ và sẽ tham gia những hệ thống kinh doanh mạng lưới để cạnh
tranh với Cisco! Cạnh tranh với Cisco thì tốt hơn là cạnh tranh với SMH)
Khi
không có một thương hiệu tường lửa , các đối thủ cạnh tranh sẽ có cơ
hội để đột nhập vào đáy tháp và sau đó họ hướng tới đỉnh tháp, nơi mang
lại lợi nhuận. Lịch sử của thị trường ô tô từ năm 1965 đến 1995 là một
minh chứng. Đầu tiên những đối thủ Nhật Bản đã chiếm lĩnh đáy tháp với
những chiếc xe ô tô được thiết kế mang lại lợi nhuận, thậm chí ở mức giá
thấp. Sau đó họ tiến dần tới nơi mang lại lợi nhuận (Honda với Acura,
Toyota với Lexus, và Nissan với Infiniti).
Bạn
hãy nghĩ tới điều gì có thể xảy ra nếu Ford và GM quyết định xây dựng
một thương hiệu “được thiết kế để có thể mang lại lợi nhuận” -, thương
hiệu sub- Chevy cuối những năm 60. Sự tăng trưởng của Nhật Bản có thể đã
chậm hơn rất nhiều và sự xâm nhập của nước này vào đỉnh kim tự tháp -
những vị trí có lợi nhuận cao - có thể đã bị trì hoãn một thập kỷ hoặc
lâu hơn thế nữa.
Chương 6 sẽ khám phá sự phát triển của mô hình lợi nhuận kim tự tháp sản phẩm tại SMH.
3. Mô hình lợi nhuận hệ thống đa thành phần
Trong
một vài lĩnh vực kinh doanh thường có nhiều thành phần tạo nên hệ
thống sản xuất và bán hàng; mỗi thành phần lại có những đặc tính lợi
nhuận khác biệt cơ bản. Sự thất bại trong việc tối đa hóa sự tham gia
trong những thành phần lợi nhuận cao nhất đã làm suy yếu khả năng sinh
lợi của toàn bộ hệ thống. Mặt khác, việc tham gia đầy đủ trong những
thành phần có khả năng sinh lợi kém hơn lại là điều cần thiết để giành
lấy thị trường cho những thành phần mang lại lợi nhuận cao nhất. (Xem
Minh họa 3.1)
Ví
dụ, trong lĩnh vực đồ uống có chứa carbon, các thành phần lợi nhuận
cao là cửa hàng tạp phẩm, nhà hàng và máy bán hàng tự động. Sự nhận
thức giá cả như sau: tại các của hàng tạp hóa, 2 cents cho mỗi đơn vị,
tại các nhà hàng, 4 cents cho mỗi đơn vị và tại các máy bán hàng tự động
là 6 cents cho mỗi đơn vị. Vùng lợi nhuận chính là tại các nhà hàng và
máy bán hàng tự động, nhưng để chiến thắng được những lĩnh vực đó, công
ty cần một thương hiệu vững mạnh. Thương hiệu được phát triển và duy trì
thông qua thị trường đại chúng, phân khúc các cửa hàng tạp hóa có lợi
nhuận thấp. Mặc dù các cửa hàng tạp hóa mang lại lợi nhuận thấp nhưng nó
lại là một bộ phận cần thiết để duy trì vị thế trong vùng lợi nhuận.
Vừa đấu tranh để duy trì vị thế thương hiệu và cổ phần trong các cửa
hàng lợi nhuận thấp, vừa cần tối đa hóa sự thâm nhập vào các máy bán
hàng tự động để tối đa hóa khả năng sinh lợi, Coca-Cola đã học hỏi và
ứng dụng điều này một cách xuất sắc.
Minh họa 3.1 Những hệ thống đa thành phần
Ngành
|
Thành phần cơ bản
|
Những thành phần lợi nhuận
|
Đồ uống nhẹ
|
Cửa hàng tạp hóa
|
Nhà hàng, máy bán hàng tự động
|
Máy tính cá nhân
|
PC box
|
Tùy chọn, hàng phụ kiện, tài chính.
|
Hàng tiêu dùng điện tử bán lẻ
|
VCR, TV, Stereo
|
Những thỏa thuận duy trì dịch vụ
|
Cà phê
|
Cửa hàng tạp hóa
|
Quán cà phê, quán giải khát
|
Ô tô
|
Tiêu thụ ô tô mới
|
Bảo hiểm, tài chính, các dịch vụ
|
Hàng chế tạo
|
Hàng hóa
|
Tài chính, dịch vụ
|
Tương
tự như vậy, trong lĩnh vực kinh doanh cà phê, các thành phần lợi nhuận
bao gồm các cửa hàng tạp hóa, quán cà phê và những quán giải khát. Cửa
hàng tạp hóa mang lại lợi nhuận thấp, những quán cà phê có khả năng mang
lại lợi nhuận cao và các quán giải khát - thậm chí còn cao hơn. Proter
& Gamble, Nestle’ và General Foods cạnh tranh nhau trong mảng cửa
hàng tạp hóa và thậm chí là trấn áp nhau. Trong khi đó, Starbuck
lại tập trung hoạt động trong những quán cà phê, ki-ốt và đã giành được
mức lợi nhuận phi thường.
Trong
một hệ thống đa thành phần, nếu không tập trung mạnh vào những thành
phần lợi nhuận cao thì mô hình kinh doanh không có khả năng cạnh tranh
và hơn nữa, khả năng tạo ra lợi nhuận sẽ thấp hơn rất nhiều so với tiềm
năng của chính nó.
Chương
7 sẽ tập trung chi tiết vào những bước mà Roberto Goizueta đã áp dụng
cho Coca-Cola và thiết lập nên một mô hình đa thành phần với khả
năng lợi nhuận cao.
4. Mô hình lợi nhuận Tổng đài
Một số
thị trường được nhận biết bởi đặc trưng giao tiếp của nhiều người bán
kết nối với nhiều người mua. Cả hai bên đều phải chịu chi phí giao dịch
cao. Thông thường, ở những thị trường này sẽ có cơ hội để tạo ra một
phương tiện trung gian có giá trị cao để tập trung những mối liên kết
này thông qua một điểm, hoặc một kênh và tạo nên một “tổng đài”. Tổng
đài sẽ giảm chi phí (cả chi phí tài chính và chi phí cá nhân) của cả
người mua và người bán, thay bằng mức phí trả cho nhân viên trực tổng
đài. Những ví dụ điển hình bao gồm OneSource của Schwab, sự kết hợp giữa
các tạp chí chuyên ngành và triển lãm thương mại của Softbank và
Auto-by- Tel.
Một
khía cạnh nổi bật của mô hình lợi nhuận tổng đài là nó được xây dựng
trên chính nó. Càng nhiều người mua và người bán tham gia thì hệ thống
càng trở nên giá trị. Chi phí liên lạc và giao dịch tiếp tục giảm cho cả
người mua và người bán. Nhân viên trực tổng đài điều khiển lưu lượng
thông tin và thậm chí một mức lệ phí khiêm tốn nhất cho mỗi giao dịch
cũng sẽ mang lại lợi nhuận đáng kể khi số lượng giao dịch tăng lên.
Những mô hình lợi nhuận tổng đài được sử dụng bởi Charles Schwab và Company sẽ được thảo luận sâu hơn trong Chương 8.
5. Mô hình lợi nhuận thời gian
Trong
kinh doanh, tốc độ luôn đóng vai trò quan trọng. Thông thường thì lợi
thế của người tiên phong cho phép nhà cải cách tích lũy mức doanh thu
vượt trội trước khi những kẻ bắt chước bắt đầu làm xói mòn lợi nhuận. Mô
hình lợi nhuận thời gian được thiết kế để tận dụng lợi thế của hiện
tượng này. Trong mô hình này, lợi nhuận bắt nguồn từ sự độc đáo duy
nhất. Mức giá cao sẽ tồn tại cho đến khi xuất hiện sự bắt chước trên thị
trường.
Thực
chất mô hình này là giá cả cao và lợi nhuận dồi dào - ở đó tồn tại một
vùng lợi nhuận- nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Sự cải cách
không ngừng là cách duy nhất để duy trì vùng lợi nhuận. Khi giá trị dịch
chuyển khỏi sự cải cách gần đây nhất của công ty thì công ty đó cần
phải đưa ra sự cải cách tiếp theo để gia nhập lại vào vùng lợi nhuận.
Mô
hình lợi nhuận này là trọng tâm trong thành công của Intel, điều đó
giải thích tại sao mà toàn bộ mô hình kinh doanh của Intel được cơ cấu
tập trung vào tốc độ. Tốc độ cao nghĩa là lợi nhuận cao. Tốc độ vừa phải
có nghĩa là không có lợi nhuận, nhưng cũng không thua lỗ (hòa vốn). Và
tốc độ thấp đồng nghĩa với việc bạn sẽ bị lãng quên. Andrew Grove hiểu
điều này rõ nhất và ông đã dẫn dắt Intel theo hướng đó. (Xem Chương 9).
6. Mô hình lợi nhuận Bom tấn
Nếu
việc hiểu rõ mô hình lợi nhuận thời gian là cần thiết cho những công ty
trong những ngành mà sự cách tân đổi mới được đánh giá cao thì mô hình
lợi nhuận Bom tấn là thực sự quan trọng đối với những công ty dược phẩm,
các nhà xuất bản, các xưởng phim, các công ty âm nhạc và các hãng
phần mềm- những ngành tốn nhiều chi phí vào việc nghiên cứu, phát triển
và tung sản phẩm mới ra thị trường, và có chu kỳ sản phẩm hạn chế .
Khi
chi phí để phát triển một sản phẩm mới là cố định (và thường là ở mức
độ cao) và những chi phí biên của việc sản xuất sau quá trình phát triển
đó thấp thì cách tốt nhất để tối đa hóa lợi nhuận là nâng cao những cơ
hội để sản xuất ra sản phẩm với số lượng lớn. Đối với những trường hợp
này, tốt hơn là nên trở thành một đơn vị dẫn đầu trong một vài sản phẩm
hơn là chịu những vị trí trung bình trong nhiều sản phẩm. Chi phí để
phát triển mỗi sản phẩm là tương đương nhau, nhưng doanh lợi thu được từ
những sản phẩm có quy mô đủ lớn thì lại lớn hơn rất nhiều. Ví dụ, nhân
tố quan trọng nhất trong lợi nhuận của ngành dược phẩm là sở hữu được
những sản phẩm bom tấn. Các sản phẩm có quy mô - trong trường hợp này
được đánh giá bởi tổng doanh số hàng bán của 5 sản phẩm hàng đầu trong
dòng sản phẩm của hãng – sẽ quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Ví
dụ này minh họa một khía cạnh quan trọng khác của mô hình lợi nhuận: sự
thay đổi về mô hình. Trong ngành dược phẩm, mô hình lợi nhuận những
năm 70 là thị phần tương ứng đối với từng loại sản phẩm. Tại thời điểm
đó, chi phí phát triển và đưa sản phẩm mới ra thị trường chỉ bằng 1/3 so
với mức chi phí ngày nay. Do đó, quy mô sản phẩm tuyệt đối không quan
trọng như bây giờ. Vấn đề quan trọng là khả năng dẫn đầu trong các loại
hình sản phẩm mà công ty đang cạnh tranh.
Ngày
nay, việc dẫn đầu trong các loại hình sản phẩm không còn mang nhiều ý
nghĩa nữa. Chi phí trung bình để phát triển và đưa sản phẩm mới ra thị
trường đã tăng lên tới 300 triệu đô la cho mỗi sản phẩm, và vòng đời
trung bình của mỗi sản phẩm đã giảm xuống dưới mức 10 năm. Việc dẫn đầu
trong các loại hình sản phẩm nhỏ lẻ sẽ không bù đắp được những khoản chi
phí lớn cần thiết cho vấn đề đầu tư. Lợi nhuận và sức cạnh tranh sẽ
xoay quanh quy mô sản phẩm. Những sản phẩm đứng thứ hai hay thứ ba với
1.6 tỷ đô la doanh số sẽ tạo ra nhiều nguồn lực để tái đầu tư hơn là
những sản phẩm chỉ có doanh thu 200 triệu đô la dù chúng đang dẫn đầu
thị trường của mình. Thị phần tương xứng trong một loại hình sản phẩm
được thay thế bởi quy mô sản phẩm như một mô hình lợi nhuận chiếm ưu thế
trong kinh doanh.
Ngoài
ngành công nghiệp dược phẩm, mô hình lợi nhuận theo quy mô sản phẩm
cũng có thể áp dụng rộng rãi cho bất cứ hoạt động nào, nơi các chi phí
phát triển sản phẩm được coi là cao và doanh thu sản phẩm có mức biến
đổi lớn. Những ngành công nghiệp khác cũng bị ảnh hưởng bởi mô hình lợi
nhuận theo quy mô sản xuất bao gồm ngành tập trung công nghệ như xuất
bản sách, âm nhạc và phim ảnh. Một ví dụ điển hình của mô hình này là
Disney (xem Chương 10) – một hãng không chỉ tạo ra lợi nhuận bom tấn mà
còn sử dụng những bộ phim với doanh thu khổng lồ như nền tảng để tạo
ra một hệ thống số nhân lợi nhuận.
7. Mô hình lợi nhuận số nhân
Mô
hình lợi nhuận số nhân thu được những thành quả liên tục từ cùng một
loại sản phẩm, nhân vật, nhãn hiệu thương mại, năng lực hay dịch vụ. Một
ví dụ điển hình về mô hình lợi nhuận này là công ty Disney. Disney đã
sử dụng biết bao nhiêu cách thức khác nhau để hoàn thiện cùng một nhân
vật như nhau. Mickey, Minnie, Hercules và nhiều nhân vật khác đã xuất
hiện trong những bộ phim, các cuốn băng videos, sách vở, quần áo, đồng
hồ và những hộp ăn trưa, tại những công viên giải trí hay trong những
cửa hàng đặc trưng. Cho dù Disney sử dụng bất kể dạng thức nào thì những
nhân vật này đều mang lại lợi nhuận cho hãng. Không một ai trong công
ty làm việc chăm chỉ hơn chính những nhân vật của họ.
Các
mô hình số nhân lợi nhuận có thể là những bộ máy quyền lực cho những
ngành kinh doanh có thương hiệu tiêu dùng vững mạnh. Một khi đã đầu tư
(thường là những khoản đầu tư khổng lồ) để tạo nên một thương hiệu, đơn
vị sáng tạo có thể cấp phép thương hiệu cho một số lượng lớn các sản
phẩm. Tuy nhiên, mô hình này phải đủ sức hấp dẫn để chống lại những rủi
ro của việc đưa thương hiệu tới những nơi nó không có quyền lực đối với
khách hàng. Disney kiểm soát kỹ lưỡng những nơi mà hình ảnh Mickey được
sử dụng và thận trọng không đặt hình ảnh đó vào những nơi có thể đe dọa
giá trị của nhân vật. Thương hiệu là những tài sản giá trị nhưng cũng
rất mỏng manh.
Chương
10 nhấn mạnh việc làm thế nào mà Disney lại tạo ra một mô hình lợi
nhuận – mô hình cho tới tận ngày nay vẫn không ai có thể bắt chước một
cách hiệu quả được.
8. Mô hình lợi nhuận đầu tư
Nhiều
yếu tố xác định khả năng lợi nhuận là những yếu tố mang tính kinh tế.
Một số yếu tố khác mang tính tổ chức. Trong quá trình thành công và phát
triển, các tổ chức trở nên nghi thức hóa hơn, quan liêu hơn, thận trọng
hơn, tách biệt khỏi khách hàng hơn và hành động chậm hơn. Sự sụt giảm
hiệu quả kinh tế do mở rộng quy mô bắt đầu xuất hiện làm lu mờ đi những
lợi thế giảm chí phí của quy mô. Tổng chi phí tăng lên trong khi việc
đưa ra quyết định thì chậm trễ hơn. Sự phản hồi trực tiếp từ khách hàng
giảm đi, bị tiế lộ ra ngoài và thường xuyên bị bỏ qua.
Hơn
thế nữa, trong công ty bắt đầu xuất hiện nguyên tắc chi trả bừa bãi. Vì
đã thành công và có lợi nhuận nên các công ty có khả năng chi trả cho
nhiều thứ vốn không thực sự cần thiết trong quá trình đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Những chi phí không cần thiết tăng lên và cuối cùng nó
sẽ phá hủy những lợi nhuận trong tương lai.
Hậu
quả của những quá trình này là gì? Sự tiếp xúc với khách hàng giảm
xuống và cơ cấu chi phí tăng lên. Công ty sẽ dễ dàng bị tấn công bởi các
doanh nhân - những người luôn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với khách
hàng hoặc chủ động nhận sự phản hồi từ khách hàng cũng như những người
duy trì sự tiết kiệm bởi họ không có khả năng để trả cho những chi phí
không cần thiết. Hai nhân tố sóng đôi của mối liên hệ trực tiếp khách
hàng và tính tiết kiệm tạo nên tiềm năng về lợi nhuận trong tương lai.
Hầu
hết những công ty lớn đều không có được một mô hình kinh doanh cho phép
khai thác đồng thời hai nhân tố sóng đôi đó trong môi trường doanh
nghiệp, nhưng một vài công ty đã tìm ra được những cách thức để làm vậy.
ABB đã tách thành 5000 trung tâm lợi nhuận có mối liên hệ trực tiếp với
khách hàng và chịu trách nhiệm trực tiếp về lợi nhuận. Softbank cũng tự
tách thành những trung tâm lợi nhuận khoảng 10 người để có thể liên hệ
trực tiếp với khách hàng và hệ thống quản lý dòng tiền trong vòng 5
ngày.
Doanh
nghiệp điển hình đã áp dụng mô hình lợi nhuận đầu tư này phải kể đến
Thermo Electron – một hãng đã ngăn chặn trước sự phá hủy lợi nhuận do
ảnh hưởng của quy mô bằng cách không ngừng tách mình thành các công
ty con. Những nhà quản lý của những công ty con trực thuộc Thermo
Electron luôn giữ mối liên hệ trực tiếp với khách hàng và có trách nhiệm
tạo ra lợi nhuận cũng như trách nhiệm trực tiếp với các cổ đông.
Cấu
trúc này cho phép tập trung vào cách thức tiếp cận sáng tạo không giống
những cấu trúc khác. Nó tạo ra một nguồn lực đầy quyền uy mới: động lực
phát triển. Những nhà quản lý các công ty con sở hữu cổ phần trong
những công ty này. Nếu họ hoạt động kinh doanh tốt, giá cổ phiếu sẽ
tăng và họ sẽ giành được phần thưởng to lớn. Không giống như nhiều nhà
quản lý bộ phận, họ không thể đổ lỗi cho công ty mẹ hoặc trụ sở chính
hay chính sách công ty. Tại Thermo Electron, năng lượng tốn cho những
lời phàn nàn đã chuyển hóa thành những đơn hàng tiếp theo với lợi nhuận
tốt nhất có thể.
Các
doanh nghiệp không thích cạnh tranh với Thermo Electron vì họ thích
cạnh tranh với những công ty lớn hơn, chậm chạp hơn và cô lập hơn. Việc
cạnh tranh với các nhân viên dễ dàng hơn là cạnh tranh với các ông chủ.
Sức mạnh của mô hình lợi nhuận này được miêu tả chi tiết trong Chương
11.
9. Mô hình lợi nhuận chuyên môn hóa
Tất
cả các doanh nghiệp đều khởi đầu từ sự thành thục với một việ gì đó. Họ
bắt đầu bằng cách đề nghị sự tinh thông chuyên nghiệp của mình. Nhưng
khi đã phát triển, họ thường có xu hướng rời xa khỏi chuyên môn của
mình và “nhảy” sang các hoạt động khác hay lĩnh vực khác khiến họ trở
nên tầm thường hơn. Trong những trường hợp này, doanh thu tăng nhưng khả
năng lợi nhuận giảm xuống.
Mặt
khác, sự tăng trưởng thông qua chuyên môn hóa theo trình tự có thể mang
lại mức lợi nhuận phi thường. Ví dụ như Electronic Data Systems (EDS)
đã phát triển thông qua sự chuyên môn hóa theo trình tự - nắm vững sự
phức tạp và tính kinh tế của các giải pháp máy tính cho nhiều phân khúc
dọc (chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm, sản xuất, ngân hàng). Tuy nhiên, hãng
này tiến hành mọi việc theo trình tự chứ không thực hiện đồng thời cùng
một lúc. Trong mỗi phân khúc thị trường dọc đó, EDS đều chứng tỏ khả
năng chuyên môn tuyệt hảo mà không một đối thủ nào có thể sánh kịp và
trở thành một đơn vị hàng đầu trong toàn bộ phân khúc này. Sau đó, hãng
mới chuyển sang phân khúc khác.
Cho
dù rất lớn mạnh nhưng EDS vẫn là một nhóm chuyên gia. Lợi nhuận của
phương pháp này có thể rất cao. Năm 1994, EDS đã giành được 13% lợi
nhuận bằng những dịch vụ kinh doanh máy tính của họ trong khi IBM, đối
thủ chính của nó - chỉ hòa vốn.
Phép
kỳ diệu trong mô hình kinh doanh toàn cầu của ABB cũng xuất phát từ sự
chuyên môn hóa. Hệ thống của ABB cho phép mỗi hãng kỹ thuật trong mạng
lưới của nó chuyên môn hóa với cường độ mạnh hơn, chứ không phải cố
gắng để có thể mang lại mọi thứ cho tất cả khách hàng. Kết quả là lợi
nhuận biên được nhân lên gấp bội (từ 2% lên 10% hoặc cao hơn thế nữa.)
10. Mô hình lợi nhuận xây dựng cơ sở dữ liệu người tiêu dùng
Một
trong những cơ chế mang lợi nhuận mạnh nhất trong kinh doanh là mô hình
lợi nhuận xây dựng cơ sở người tiêu dùng (Minh họa 3.2). Nhà cung cấp
tạo ra một cơ sở rộng lớn người sử dụng - những người sau đó sẽ chọn
thương hiệu của nhà cung cấp khi mua bất kỳ mặt hàng hay sản phẩm đã
được chào bán ra công chúng.
Mô
hình kinh doanh này có thể rất có lãi nếu như doanh nghiệp có thể kiểm
soát được thị trường sản phẩm bổ sung. Loại hình kiểm soát này sẽ hiệu
quả nhất khi cơ sở dữ liệu người tiêu dùng đó cho phép sáng tạo ra một
tiêu chuẩn. Trong quá trình lập ra tiêu chuẩn, công ty tạo ra một cách
hiệu quả một cơ sở lớn nhất có thể bằng cách lôi kéo tất cả các khách
hàng trong ngành sử dụng sản phẩm của mình. Trong những điều kiện này,
công ty có thể quản lý thị trường sản phẩm mới xuất hiện bằng cách trở
thành nhà cung cấp chính các sản phẩm và dịch vụ mới.
Đó
chính là một yếu tố quan trọng trong suy nghĩ của Bill Gates ngay từ
chính bước đi đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của ông. Chiến
lược của Microssoft là giá rẻ, lập tiêu chuẩn, sản phẩm hiện diện khắp
nơi, và sau đó là gặt hái lợi nhuận từ việc nâng cấp và chỉnh sửa các
sản phẩm bán ra. Gates hành động với một sự hiểu biết chính xác về cách
thức mà lợi nhuận sẽ diễn ra như thế nào trong kinh doanh (xem chương
13).
Minh họa 3.2: Mô hình Lợi nhuận xây dựng cơ sở
|
Cơ sở xây dựng
|
Thị trường theo sau
|
Dao cạo
Thang máy
Phần mềm
Hệ thống nước tẩy rửa
Máy copy cá nhân
Máy quay phim
|
Lưỡi dao cạo
Hợp đồng dịch vụ
Nâng cấp phần mềm
Hóa trị
Toner cartridge
Phim
|
11. Mô hình lợi nhuận tiêu chuẩn thực tế
Mô
hình lợi nhuận xây dựng cơ sở cung cấp một dòng lợi nhuận cao, được bảo
hộ đều đăn hàng năm. Cơ sở được xây dựng trở thành một yếu tố thiết yếu
của một mô hình mang lại lợi nhuận cao khác khi nó cho phép người sở
hữu xây dựng một tiêu chuẩn thực tế. Sau đó tiêu chuẩn này sẽ định hướng
khách hàng và các hành vi cạnh tranh trong toàn ngành.
Đặc
điểm nổi bật nhất của việc kinh doanh tiêu chuẩn thực tế là tăng doanh
thu theo quy mô. Trong loại hình kinh doanh này, một số lượng lớn
người tham gia, từ những nhà sản xuất thiết bị nguyên gốc (OEM) cho đến
những nhà phát triển ứng dụng cho người tiêu dùng, bị cuốn vào quỹ đạo
đầy sức hút của người nắm giữ tiêu chuẩn. Càng nhiều người chơi tham
gia vào hệ thống, hệ thống càng có nhiều giá trị hơn. Kết quả là, người
nắm giữ tiêu chuẩn có thể thấy doanh thu của mình tăng lên cùng với giá
trị của hệ thống.
Microsoft
có thể chuyển vị thế xây dựng cơ sở của mình thành vị thế nắm giữ tiêu
chuẩn thực tế vốn là một động cơ kinh tế rất mạnh. Oracle đã tạo ra
một đường xoắn ốc đi lên tương tự quanh tiêu chuẩn thực tế của mình
trong hệ dữ liệu có liên quan. Hệ thống SABRE của American Airline chính
là tiêu chuẩn thực tế cho việc đặt chỗ trước trên máy bay, và kiếm được
nguồn doanh thu quan trọng từ khách hàng Mỹ. Toàn bộ các ngành được xây
dựng lại quanh các tiêu chuẩn thực tế, để lại đằng sau những đối thủ đã
thua cuộc trong cuốc chiến xác định tiêu chuẩn (ví dụ như Apple và
Sybase) và nhìn mức lợi nhuận của mình bị xói mòn dần qua thời gian. Sức
mạnh của mô hình này được miêu tả chi tiết trong phân tích về công ty
Microsoft tại Chương 13.
Những cách khác để kiếm lợi nhuận
Ngày
nay có rất nhiều mô hình lợi nhuận được các công ty sử dụng. Chúng tôi
tập trung nêu ra 11 mô hình này bởi vì chúng đã được sử dụng thành công
bởi các nhà sáng tạo và sẽ được thảo luận trong các chương sau của cuốn
sách. Nhiều mô hình lợi nhuận khác có thể định nghĩa cách một hãng tạo
ra tiền: thị phần tương ứng, đường cong kinh nghiệm, quy mô giao dịch,
sự dẫn đầu ở mức độ địa phương, việc sử dụng năng lực trong vòng tròn
cung – cầu, kiểm soát cấu trúc các điểm quan trọng trong chuỗi giá trị,
….. Việc học hỏi toàn bộ các mô hình có thể là một bước đi quan trọng
của bất kỳ nhóm quản lý nào trong khi cố gắng xác định định hướng chiến
lược. Nó sẽ làm tăng mạnh tính hiệu quả trong quá trình tạo
quyết định của ban quản lý. Minh họa 3.3 tóm tắt các mô hình và
những người đi đầu trong việc thực hiện chúng. Đây là những nhà sáng
tạo, những công ty trong vùng lợi nhuận. Để có những thảo luận sâu hơn
về các mô hình này, xin hãy xem phần phụ lục cho mỗi chương.
Minh họa 3.3: Các mô hình lợi nhuận và đơn vị thực hiện chúng
|
Mô hình lợi nhuận
|
Những người thực hiện
|
1. Giải pháp khách hàng
2. Kim tự tháp sản phẩm
3. Đa thành phần
4. Tổng đài
5. Thời gian
6. Bom tấn
7. Số nhân
8. Đầu tư
9. Chuyên môn hóa
10. Xây dựng cơ sở
11. Tiêu chuẩn thực tế
12. Thương hiệu
13. Sản phẩm đặc biệt
14. Dẫn đầu ở mức độ địa phương
15. Quy mô giao dịch
16. Vị thế chuỗi giá trị
17. Vòng đời
18. Hậu mãi
19. Sản phẩm mới
20. Thị phần có liên quan
21. Đường cong kinh nghiệm
22. Thiết kế kinh doanh chi phí thấp
|
- GE, USAA, Nordstrom, ABB, Nalco, HP
- SMH (Swatch), Mattel
- Coca Cola, Mirage Resorts
- Schwab, USAA, Auto-by-Tel, CÂ
- Intel, Banker Trust, Sony
- Merck, Disney, NBC
- Disney, Virgin, Honda
- Thermo-Electron, ABB, 3M
- ABB, EDS, Wallace
- Microsoft, Otis Elavator, Gillette, GE
- Microsoft, Oracle
- Intel, Coca Cola, Nike
- Hercules,Merck, 3M, Great Lakes Chemical
- Starbuck’s, Wal-Mart
- Morgan Stanley, British Airways
- Intel, Blockbuster Video, Republic Industries
- Toyota, Dow Chemical
- GE, Softbank (Kingston)
- Compaq, Chrysler
- Procter & Gamble, Philip Morris
- Miliken, Emerson Electric
- Nucor, Southwest Air, Dell
|
Văn hóa tổ chức: Tâm lý học của việc tạo ra lợi nhuận
Ngay
cả trong một ngành kinh doanh có lãi và khi mô hình kinh doanh được
hiểu rõ, vẫn còn những sự khác biệt đáng kể trong thực hành, phụ thuộc
vào quy tắc, kỳ vọng và văn hóa bên trong tổ chức.
Trong
một cuộc phỏng vấn gần đây, người đứng đầu của một tổ chức bán hàng lớn
đã phàn nàn về việc thiếu tinh thần tiết kiêm vẫn được chấp nhận như
một quy tắc trong công ty của bà.
Bà
nói: “Chúng tôi không biết chắt chiu từng đồng đô la của mình. Chúng
tôi nghỉ tại những khách sạn tốt nhất, các cuộc họp nhân viên bán hàng
hàng năm diễn ra trong khu resort xinh đẹp tại Florida, chúng tôi ăn
những món ăn ngon và không mua vé máy bay trước đủ nhiều để giảm bớt
chi phí. Chúng tôi đã có suy nghĩ rằng những vấn đề này không đáng để
quan tâm.”
Một
khi đã thành nếp, sẽ rất khó thay đổi những thói quen trong tổ chức
này. Khi thay đổi, vùng lợi nhuận sẽ chứng tỏ tác hại của mình.
CEO
của một quán cà phê nhỏ đã nhận ra điều đó cũng như các phương thức
tiếp cận trong vấn đề chi phí đã phản ánh nỗi lo sợ đó của ông. Công
ty của ông là một công ty mạnh, đạt doanh thu 50 triệu đô la, lợi nhuận
trước thuế là 20% với mức tăng trưởng hàng năm là 25%. Đó không phải
là một công ty mạnh về đồng vốn để có thể cho phép mọi người vung
tay quá trán.
Ông
nói: “Chúng tôi tổ chức các cuộc họp cho nhân viên bán hàng ngay gần
văn phòng, chúng tôi thuê một phòng tập thể dục của một trường cấp 3, và
nhân viên của chúng tôi lưu trú tại khách sạn địa phương Quality Inn.
Chúng tôi có đủ tiền để chi tiêu một cách hào phóng hơn, nhưng một khi
bắt đầu bước chân trên con đường xa xỉ này, bạn sẽ có nguy cơ thất bại."
Vị
CEO nói thêm: “Người đứng đầu bộ phận sản xuất của tôi quả là một
thiên tài trong việc tập hợp các trang thiết bị. Anh ta luôn mua
thiết bị cũ, không bao giờ mua đồ mới. Anh ta dành hàng giờ đồng hồ để
xác định cái nào phù hợp với hoạt động của chúng tôi và có thể hoạt động
hiệu quả hơn. Anh ta không thích phải trả tiền để mua thiết bị mới. Anh
ta chưa bao giờ làm như thế.”
Vùng lợi nhuận (The Profit Zone)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét