Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Quỹ đầu tư - Những điều cần biết






Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.


Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ bởi 5 yếu tố sau:
• Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư
• Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt các yêu cầu về lợi nhuận
• Được quản lý chuyên nghiệp
• Giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan thẩm quyền
• Tính năng động của quỹ đầu tư
• Mỗi nhà đầu tư tham gia đầu tư vào quỹ sẽ sở hữu một phần trong tổng danh mục đầu tư của quỹ. Việc nắm giữ này được thể hiện thông qua việc sở hữu các chứng chỉ quỹ đầu tư.
Cơ chế hoạt động và giám sát của quỹ đầu tư
• Cơ quan quản lý chủ quản của công ty quản lý quỹ là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam giám sát toàn bộ các hoạt động của công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư và các ngân hàng giám sát về mặt vĩ mô.
• Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
• Công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ việc đầu tư theo danh mục đầu tư được nêu trong cáo bạch của quỹ.
• Công ty kiểm toán: thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan và chính xác tình hình hoạt động của quỹ đầu tư, bảo đảm sự minh bạch.

Các loại hình quỹ đầu tư. Có thể phân loại các quỹ dựa trên các tiêu chí sau:
1. Căn cứ vào nguồn vốn huy động:

+ Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công chúng)
Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.

Tại VN hiện nay có 4 quỹ công chúng đang được niêm yết trên thị trường chứng khoán là: VF1, VF4, BF1, PF1. Các quỹ này đều là quỹ đóng.
Quỹ Vốn điều lệ (tỷ đồng) Ngày thành lập Thời gian hoạt động
VFMVF1 1.000 04/2004 10 năm
VFMVF4 8.000 01/2008 10 năm
PRUBF1 500 11/2003 07 năm
MAFPF1 250 07/2007 07 năm
+ Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành viên)
Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ.

2. Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn:

+ Quỹ đóng

Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động.

+ Quỹ mởKhác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính chất đặc thù của nó là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam.

3. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ:

+ Quỹ đầu tư dạng công ty

Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân.

+ Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.

Nhìn lại vụ thoái vốn khỏi thị trường chứng khoán VN của Indochina Capital Việt Nam, tìm hiểu thêm về hedge fundsHedge funds hay còn gọi là quỹ đầu tư thanh khoản linh hoạt. Đây là loại quỹ đầu tư có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt. Ngược lại  với các quỹ đại chúng, hedge funds hạn chế số lượng các nhà đầu tư vào quỹ, vì thế thường mỗi nhà đầu tư phải bỏ ra những khoản tiền đầu tư rất lớn đóng theo phương thức "gọi vốn không đại chúng". Do ít không bị quản chế ngặt nghèo, hedge funds thường rất linh hoạt trong các chiến lược đầu tư. Hedge funds có thể tham gia các hợp đồng futures, swaps, và có thể tiến hành các chiến lược đầu tư phức hợp, do đó có thể kiếm lời không chỉ trong các khoảnh khắc dao động lớn của thị trường, mà cả khi thị trường đang bán tháo tài sản tài chính.

Không phải công bố tình hình hoạt động hàng quý, không thông báo khi quỹ thay đổi chiến lược đầu tư, không cần tính thanh khoản trong giao dịch hàng ngày như các quỹ đại chúng, hedge funds, ngược lại, thường "khóa chặt" các khoảng thời gian rút vốn để hoạt động có thể sinh lợi và chỉ trả lợi tức cho nhà đầu tư khi khoảng thời gian qui định đó kết thúc. Tóm lại mục tiêu của hedge fund là hướng tới lợi nhuận tuyệt đối bất chấp xu hướng của thị trường. Với cơ chế hoạt động như vậy, hiện chưa có hedge fund nào được phép hoạt động tại VN.

Tuy nhiên, thông qua các quỹ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có cổ phiếu niêm yết tại thị trường chứng khoán nước ngoài, các hedge funds vẫn có thể gián tiếp tác động đến TTCKVN. Điển hình là vụ thoái vốn của Indochina Capital Vietnam (ICV), thuộc Indochina Capital, có cổ phiếu niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán London.

Từ cuối quý II/2008, cổ phiếu ICV được giao dịch với mức giá giảm mạnh khác thường, trong khi đó phần lớn danh mục đầu tư vẫn được giữ ở dạng tiền mặt và các khoản thu nhập khác.

Tính đến ngày 31/7/2009, NAV của ICV đạt gần 243 triệu USD, giảm gần một nửa so với mức 500 triệu USD ban đầu, trong đó danh mục đầu tư cổ phiếu niêm yết chiếm 37,9% NAV, cổ phiếu chưa niêm yết chiếm 4,3% NAV, đầu tư vào góp vốn cổ phần (private equity) chiếm 11,2% NAV; tiền mặt và tài sản khác chiếm 46,7% NAV. Đồng thời, sự tăng điểm mạnh của thị trường chứng khoán Việt Nam trong nửa đầu năm 2009 đã làm tăng NAV của ICV. Nếu so với thời điểm cuối năm 2008, NAV tính trên mỗi cổ phiếu của ICV vào ngày 31/7/2009 đạt 5,32 USD/cổ phiếu - tăng trên 110%.

Điều này đã thu hút sự chú ý của các hedge funds đa quốc gia. Các quỹ này đã mua rất mạnh cổ phiếu của ICV từ cuối tháng 9/2008, nắm tỷ lệ cổ phần đủ lớn tham gia quyền phủ quyết buộc ban lãnh đạo của ICV đóng cửa quỹ, thanh lý danh mục đầu tư.

StockNews

0 nhận xét:

Đăng nhận xét