*
Vì sao Coca-Cola, Disney, Intel... lại là những đơn vị tiên phong so
với các đối thủ cạnh tranh trong việc nhận biết những vùng lợi nhuận
luôn thay đổi?
"Vùng lợi nhuận
là cuốn sách hấp dẫn mà các nhà quản lý sẽ cầu nguyện để các đối thủ
của mình đừng bao giờ đọc nó." Richard D'aveni, Trường quản trị kinh
doanh Amos Tuck.
CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH KINH DOANH LẤY KHÁCH HÀNG LÀM TRUNG TÂM
30
năm trước, khách hàng không phải là một vấn đề quan trọng. Điều đó nghe
có vẻ dị thường, nhưng đó lại là sự thật. Trong bối cảnh kinh doanh sau
chiến tranh (thập niên 50-60), nhu cầu khách hàng vượt quá khả năng sản
xuất. Đó là thế giới của các nhà cung cấp và những công ty lớn mạnh
thống trị - những kẻ nắm vị trí điều khiển nền kinh tế.
Ngược
lại, ngày nay, số lượng lựa chọn của khách hàng bị thu hẹp lại bởi
lượng thông tin sẵn có về mỗi sự lựa chọn đó. Đã có một sự thay đổi
quyền lực vĩnh viễn từ nhà cung cấp sang khách hàng. Những thị trường
mang tính cạnh tranh cao và dồi dào về thông tin đã đặt khách hàng vào
vị trí trung tâm của hoạt động kinh doanh toàn cầu. Trong môi trường
mới này, những doanh nghiệp thành công là những đơn vị ứng dụng tư duy
lấy khách hàng làm trung tâm để xác định những vấn đề khách hàng quan
tâm và xây dựng mô hình kinh doanh phù hợp với chúng.
TƯ DUY LẤY KHÁCH HÀNG LÀM TRUNG TÂM LÀ GÌ?
Hãy
bắt câu hỏi này với những gì đối ngược lại, nghĩa là mỗi một ý nghĩ của
chúng ta không hướng đến khách hàng. Đó không phải là việc nghiên cứu
thị trường truyền thống thông thường với hàng núi dữ liệu, hàng trăm
bảng biểu và không có sự hiểu biết sâu sắc. Nó cũng không phải là việc
nghiên cứu sự thỏa mãn khách hàng một cách truyền thống - chỉ số quan
trọng nhưng lạc hậu trong việc xác định cách thức mà những người ra
quyết định của ngày hôm qua đánh giá chúng ta dựa trên những yếu tố quan
trọng trong mô hình kinh doanh.
Các nghiên
cứu thị trường truyền thống luôn cố gắng để đo lường mọi thứ. Ngược
lại, tư duy chiến lược lấy khách hàng làm trung tâm giải mã câu đố về
hai hoặc ba vấn đề quan tâm hàng đầu với sự hiểu biết đủ sâu sắc để có
một cơ hội tốt đáp ứng những vấn đề quan tâm này một cách có lợi nhất.
Để
tạo nên một viễn cảnh năng động và chiến lược về khách hàng, bất kỳ ai
cũng đều phải có quan điểm rõ ràng và thuyết phục về câu hỏi sau:
Khách hàng đang thực sự thay đổi như thế nào?
Hãy
viết câu hỏi này xuống. Nó chính là vũ khí quản lý quyền lực nhất của
riêng bạn. Câu trả lời cho câu hỏi này không đến từ quá trình nghiên cứu
thị trường thông thường hay việc phân tích sự hài lòng của khách hàng
truyền thống. Nó xuất phát từ khát vọng quyền lực để phá vỡ mật mã của
sự thay đổi những vấn đề khách hàng quan tâm bằng cách thực hiện những
công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều cố gắng và mang tính trinh thám.
Trong
các nghiên cứu thị trường điển hình, các chuyên gia nghiên cứu phản ứng
rất nhanh và cố gắng tháo bỏ càng nhiều thông số càng tốt. Tuy nhiên,
rất ít người có mối quan hệ với khách hàng và không thể giúp chúng ta
trả lời câu hỏi. Doanh nghiệp sẽ thuê các chuyên gia nghiên cứu thị
trường để thực hiện cuộc điều tra, theo đó, các chuyên gia này sẽ đưa ra
ch người tiêu dùng một số câu hỏi trắc nghiệm với nhiều phương án trả
lời có sẵn. Sau đó, những câu trả lời này được tổng hợp lại và được áp
dụng một số phương pháp khác nhau để khám phá ra những sở thích “thực
sự” của khách hàng. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu thị trường,
việc nghiên cứu như vậy có thể đưa ra những câu hỏi sai hoặc thăm dò
không đủ sâu sắc. Ngược lại, tư duy lấy khách hàng làm trung tâm cần
nhìn vào những vấn đề của khách hàng bằng đôi mắt của khách hàng, chứ
không phải thông qua cái nhìn của một nhà nghiên cứu thị trường. Nhà tư
duy lấy khách hàng làm trung tâm dành thời gian nói chuyện với khách
hàng thay vì đọc những báo cáo nghiên cứu thị trường. Những cuộc nói
chuyện như vậy sẽ mang đến sự hiểu biết trực tiếp về những vấn đề của
khách hàng từ chính viễn cảnh của họ - khác xa với việc tiếp nhận thông
tin đã được chắt lọc từ một bản báo cáo dài dòng.
Những
doanh nghiệp thành công hoạt động ngược với việc nghiên cứu thị trường
thông thường. Quy trình khám phá khách hàng của doanh nghiệp vẫn tiếp
diễn, và có tác động đến nhau; với nhiều năng lực tiềm tàng cũng như
những sai lầm, những hiểu biết sâu sắc. Những doanh nghiệp thành công
hoạt động dựa trên những hiểu biết đó và thiết kế hoạt động kinh doanh
của mình dựa trên những gì họ đã học hỏi. Thông qua mối quan hệ trực
tiếp với khách hàng, doanh nghiệp có thể xác định được các giải pháp cho
những vấn đề của khách hàng và gìn giữ được sự nhiệt tình, ngân sách và
lòng trung thành của họ.
Tư
duy lấy khách hàng làm trung tâm không phải là một quy trình không màu,
không mùi, không sinh khí. Nó hỗn độn, phi tuyến tính và khó hiểu-
nhưng thực sự cần thiết. Tư duy lấy khách hàng làm trung tâm đưa ra câu
hỏi: Vậy đó là vấn đề gì? Ai sẽ quan tâm?
TẠI SAO TƯ DUY LẤY KHÁCH HÀNG LÀM TRUNG TÂM LẠI QUÁ HÀ KHẮC NHƯ VẬY?
Có
hai lý do khiến cho tư duy lấy khách hàng là trung tâm không hề dễ đối
với những nhà quản lý kinh doanh ngày nay. Thứ nhất, bởi vì những nhà
quản lý - đặc biệt là các nhà quản lý cao cấp, những người mà công việc
của họ kéo dài qua hai thế kỷ hoặc hơn nữa - được đào tạo trong một thế
giới lấy sản phẩm làm trung tâm. Họ được đào tạo để tập trung không
ngừng vào việc phát triển những sản phẩm của mình, tăng thị phần và phát
triển doanh thu. Họ trở thành những nhà quản lý cấp cao bởi họ thực
hiện rất tốt chức năng của mình trong thế giới đó.
Thứ
hai, tư duy lấy khách hàng làm trung tâm không hề đơn giản bởi những gì
xảy ra khi các công ty đã thành công. Trải qua thời gian, trọng tâm của
một công ty sẽ thay đổi. Như Minh họa 2.1 đã chỉ ra, xét về khía cạnh
doanh nghiệp, trọng tâm của tư duy công ty tập trung vào khách hàng. Một
doanh nghiệp nhỏ phải tập trung mạnh mẽ vào khách hàng nếu
không nó sẽ thất bại. Khi công ty phát triển, trọng tâm của công ty bắt
đầu thay đổi ở những mức độ nhỏ và tinh tế. Nó dịch chuyển khỏi khách
hàng và hướng tới chính công ty. Xét về khía cạnh thành công, công ty đã
từng phát triển lớn hơn và trọng tâm dịch chuyển nhiều hơn về phía công
ty và ra khỏi khách hàng. Cuối cùng, nó nằm trong công ty, hiện đang
tập trung vào chính nó. Một công ty tập trung vào chính nó - kế hoạch
ngân sách nội bộ, những vấn đề liên quan đến các nguồn lực nội bộ và các
vấn đề chính trị đối nội- sẽ gặp nhiều khó khăn lớn với tư duy lấy
khách hàng làm trung tâm.
ĐẢO NGƯỢC CHUỖI GIÁ TRỊ
Để
bắt đầu với tư duy lấy khách hàng làm trung tâm, những nhà quản lý phải
đảo ngược chuỗi giá trị truyền thống (Minh họa 2.2). Chuỗi giá trị
truyền thống khởi đầu với những năng lực cốt lõi của công ty, những tài
sản của nó. Tiếp theo là sản lượng đầu vào và những nguyên vật liệu
khác, tới sản phẩm/dịch vụ bán ra, các kênh phân phối và cuối cùng mới
là khách hàng. Chuỗi giá trị này bắt đầu với tài sản và sau đó tìm cách
biến những tài sản đó thành sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp theo khuôn mẫu
về những gì quan trọng đối với khách hàng. Toàn bộ quy trình này cần
phải đảo ngược lại.
Tư
duy lấy khách hàng làm trung tâm có điểm xuất phát từ khách hàng và sau
đó chuyển dịch đến tài sản và những năng lực cốt lõi. Tư duy này
tập trung vào những nhu cầu của khách hàng và những vấn đề họ quan tâm
cũng như nhận ra những lựa chọn mà qua đó những nhu cầu và mối quan tâm
này sẽ được đáp ứng theo cách tốt nhất có thể. Nó đảo ngược thực sự
chuỗi giá trị để khách hàng là mắt xích đầu tiên trong chuỗi và theo sau
đó là mọi thứ khác - hay mọi thứ khác đều bị điều khiển bởi khách hàng.
Những nhà quản lý nên nghĩ tới: (1) Những nhu cầu của khách hàng của họ
và những vấn đề khách hàng quan tâm là gì; (2) Những kênh nào có thể
thỏa mãn những nhu cầu và vấn đề đó; (3) Những dịch vụ và sản phẩm phù
hợp nhất để lưu thông qua những kênh đó; (4) sản lượng đầu vào và những
nguyên liệu thô yêu cầu để tạo nên sản phẩm và dịch vụ; và (5) tài sản
và những năng lực cốt lõi cần thiết cho đầu vào và những nguyên liệu
thô.
SẮP XẾP LẠI THỜI GIAN QUẢN LÝ
Việc khám phá mật mã về những nhu cầu và vấn đề quan tâm của khách hàng không thể được hoàn thành trong văn phòng của bạn.
Những
thông tin quan trọng cần thiết nằm “bên ngoài” trong thị trường: trong
văn phòng của khách hàng, hoặc những nhà máy và cửa hàng, hoặc những hệ
thống điều hành. Quan điểm thực tế này trực tiếp chỉ ra việc sắp xếp lại
một cách triệt để thời gian của các nhà quản lý cao cấp.
Trong
trật tự của nền kinh tế cũ, hầu hết những thông tin bạn cần cho sự
thành công của mình nằm trong chính công ty của bạn và trong nền công
nghiệp. Ngày nay, những thông tin quan trọng mà bạn cần lại bắt nguồn từ
bên ngoài công ty của bạn (nền tảng khách hàng và phạm vi của màn hiện
sóng radar mang tính cạnh tranh) và bên ngoài ngành kinh doanh của bạn
(những mô hình kinh doanh vĩ đại, đã được phát triển bới những cá nhân
khác, có thể giải quyết những vấn đề chiến lược mà công ty bạn đang phải
đối mặt).
Đáng
tiếc thay, một cuộc điều tra gần đây đã chỉ ra rằng những nhà quản lý
cấp cao vẫn dành 70% thời gian của họ cho những gì thuộc về “bên trong”.
Và 30% thời gian cống hiến cho những hoạt động “bên ngoài” được phân
chia cho những nhà cung cấp, những nhà phân tích mức độ an toàn, các nhà
báo, tổ chức từ thiện, các ban ngành khác và khách hàng. Trong trật tự
nền kinh tế cũ, sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong
một thế giới của sự chuyển đổi giá trị, nó không có ý nghĩa như vậy.
Với
sự lưu chuyển giá trị một cách nhanh chóng từ những mô hình kinh doanh
cũ tới những mô hình kinh doanh mới với nhiều hơn khách hàng tương ứng,
bạn phải đảo ngược tỉ lệ bên trong và bên ngoài này. Hãy dành hầu hết
thời gian của bạn cho “bên ngoài”, với khách hàng. Đừng dành thời gian
của bạn cho những khách hàng đã có cảm tình với bạn. Hãy kiếm tìm
những khách hàng khắt khe nhất, khó tính nhất và có những hiểu biết sâu
sắc nhất về ngày mai.
Cuối
cùng, đừng thâm nhập vào những cuộc đối thoại khách hàng để hỏi chính
bản thân mình, “Tôi cần biết điều gì?”. Hãy hỏi những câu hỏi chính xác
như: “Tôi sợ tìm ra điều gì?” Câu trả lời cho câu hỏi thứ hai này sẽ
mang đến cho bạn những manh mối tốt nhất về cách làm thế nào để thay đổi
mô hình kinh doanh của bạn để dành được những khách hàng của ngày mai
và để nắm bắt được lợi nhuận tương lai.
Việc
nắm vững nghệ thuật đối thoại chân thành và kiên trì với khách hàng sẽ
luôn mở ra những cơ hội mới cho sự tăng trưởng lợi nhuận. Nó cũng sẽ tạo
ra sự thất vọng to lớn cho các đối thủ cạnh tranh của bạn. Ví dụ, một
nhà lãnh đạo cao cấp của một đối thủ cạnh tranh với GE đã tổng kết sự
khác biệt giữa hãng của ông ta (một nhà cung cấp vật liệu lớn) với GE:
Kế hoạch A
9:00 Họp nội bộ
10:00 Họp nội bộ
11:00 Họp nội bộ
12:00 Ăn trưa
2:00 Họp nội bộ
Vấn đề là kế hoạch làm việc của Jack Welch lại được thực hiện như sau:
Kế hoạch B
9:00 Gặp gỡ khách hàng
10:00 Gặp gỡ khách hàng
11:00 Gặp gỡ khách hàng
12:00 Ăn trưa (với khách hàng)
2:00 Gặp gỡ khách hàng
Kế hoạch B trái ngược hoàn toàn với
Kế hoạch A. Bằng việc tiếp cận trực tiếp với dòng dữ liệu luôn thay
đổi không ngừng, các nhà quản lý thành công sẽ có được những thông
tin quan trọng mà họ cần. Họ sẽ tìm ra mối quan tâm số một của khách
hàng và thiết lập nên mô hình kinh doanh lấy khách hàng làm trung tâm
bao quanh nó - cái ảnh hưởng lớn nhất đến những tiêu chuẩn quyết định
quan trọng nhất của khách hàng.
GIẢI MÃ NHỮNG MỐI QUAN TÂM CỦA KHÁCH HÀNG
Giá
trị của bất kỳ một loại sản phẩm hay dịch vụ nào là kết quả về khả năng
của nó trong việc đáp ứng những vấn đề quan tâm của khách hàng. Xét một
cách đơn giản thì những vấn đề khách hàng quan tâm là những thứ quan
trọng đối với khách hàng nên họ sẽ trả thêm một khoản tiền cho chúng
hoặc khi họ không thể có chúng, họ sẽ thay đổi nhà cung cấp.
Mối quan tâm của khách hàng có một loạt yếu tố khác nhau, từ tiêu chuẩn mua hàng đến các hệ thống tiêu chí kinh tế. (Hình 2.3).
Mỗi
yếu tố này góp phần vào những vấn đề khách hàng quan tâm khi xem xét
một nhà cung cấp. Để hiểu được khách hàng, nhà quản lý phải đưa ra những
câu hỏi đúng với đúng người. Đối với một khách hàng công nghiệp, hiếm
khi chỉ có một người mua hay một nguồn chi phối. Có nhiều người mua
cũng như những nguồn phân phối và chúng được phân tán thông qua kim
tự tháp tổ chức của khách hàng.
Thách
thức trong việc phân tích khách hàng chiến lược không chỉ nằm ở chỗ tìm
hiểu những cấp bậc khác nhau trong một tổ chức mà còn nằm ở việc sử
dụng đa dạng những phương pháp khác nhau để tạo nên một bức tranh thực
sự. Cấu trúc về nhu cầu, hành vi ứng xử, quy trình đưa ra quyết đinh, độ
nhạy cảm về giá cả và sở thích của khách hàng cũng phức tạp như một
phân tử. Trong khoa học lượng tử, các nhà nghiên cứu sử dụng tia X tinh
thể học (chụp ảnh tự nhiều góc độ) để xác định cấu trúc thực của một
phân tử. Trong khoa học nghiên cứu khách hàng, chúng ta cũng phải tiến
hành phương thức tương tự.
Mặc
dù một bức ảnh được chụp bằng tia X tinh thể học không bao giờ là hoàn
hảo hay trọn vẹn nhưng bản chất hoạt động của một cấu trúc phân tử vẫn
có thể được tạo nên. Cũng như vậy, việc giải đoán cấu trúc của khách
hàng, những cuộc phỏng vấn, sự phân tích, điều tra kinh tế, những nhóm
tập trung, những phân tích thỏa hiệp và một loạt những phương pháp khác,
tất cả đều mang đến một cách giải thích cục bộ. Hợp nhất chúng
thậm chí còn khó hơn và phức tạp hơn việc tạo nên từng cái một, nhưng
đó chính là nơi bạn có thể tìm thấy giá trị và những sự hiểu biết sâu
sắc.
Hãy xem Minh họa 2.4. Những gì miêu tả các khách hàng mà công ty của bạn hay ngành kinh doanh của bạn đang phục vụ?
Việc
hiểu khách hàng của bạn cảm thấy như thế nào và tại sao lại cảm thấy
như vậy sẽ mang đến cho bạn một cơ hội quan trọng để tìm ra những đầu
mối về việc thay đổi mối quan tâm và những cơ hội tăng lợi nhuận trong
tương lai. Nhiều tổ chức kinh doanh một cách mù quáng theo cách thức
truyền thống của họ và đã thất bại trong việc nắm giữ những quan tâm chủ
yếu của khách hàng. Một nhà quản lý cấp cao gần đây đã phát biểu,
“Chúng tôi không nhìn vào những thứ vốn là của khách hàng̣ mà nhìn
vào những gì vốn là của chúng tôi ”. Vì vậy, trong nhiều ngành, khách
hàng thường chán nản, tức giận và không thích thú. Ngành kinh doanh là
nơi cư ngụ của những mô hình tương tự nhau cùng cạnh tranh theo một
cách thức giống nhau và lấy sản phẩm thay vì khách hàng làm trung tâm.
Tình trạng này mang đến những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp và
những người mới đến:
· Giải mã những vấn đề quan tâm nào của khách hàng đang bị bỏ quên (tương ứng với những từ trong cột bên trái trong Bảng 2.4)
· Sáng tạo một mô hình kinh doanh mới đáp ứng những vấn đề đó
· Tạo nên một vùng lợi nhuận mới với khả năng sinh lời đặc biệt cao
Minh họa 2.4. Những phản ứng của khách hàng
Chán nản
|
Lòng nhiệt tình
|
Tức giận
|
Cam kết với bạn
|
Không thích thú
|
Háo hức để nói chuyện với bạn
|
Dè dặt
|
Thích thú với những sản phẩm/dịch vụ bán ra của bạn
|
Mối quan hệ ngắn hạn với người bán
|
Thích mua nhiều hơn
|
Doanh
nghiệp hoặc người mới đến không phải xuất phát từ bên ngoài ngành. Công
ty của bạn có thể đóng vai trò đó. Cái chính là cần phải hiểu những
vấn đề mà khách hàng của bạn quan tâm.
Những
nhà thiết kế mô hình kinh doanh được giới thiệu trong cuốn sách này đều
là những người tinh thông tư duy lấy khách hàng làm trung tâm. Họ đã
xác định được những thay đổi trong những vấn đề quan tâm của khách hàng
và thiết kế lại hoạt động kinh doanh của họ khi trong tâm họ khắc sâu
những thay đổi đó. Nicolas Hayek, nhà lãnh đạo của SMH, một công ty sản
xuất đồng hộ Thụy Sĩ, hiểu rằng ngày càng nhiều khách hàng có thể mua
những chiếc đồng hồ đeo tay dựa trên thị hiếu và cảm xúc thay vì dựa
trên uy tín. Roberto Goizueta cũng hiểu rằng, trong nhiều trường hợp,
những vấn đề mà khách hàng của Coca-Cola quan tâm không phải là giá cả
mà là sự sẵn có của hàng hóa và khách hàng chủ chốt trong hệ thống chính
là những người đóng chai, những người mà hành động của họ quyết định
đến sự sẵn có của hàng hóa sẽ như thế nào. Charles Schwab vượt ra khỏi
trạng thái tâm lý truyền thống coi “khách hàng như mục tiêu bán hàng”
khi nhận ra rằng những nhà đầu tư có những mong đơi khác nhau về sự
hướng dẫn và rất chán ghét sức ép bán hàng. Michael Eisner của Disney
thì nhận thấy rằng những khách hàng luôn sẵn sàng để trả nhiều tiền hơn
cho các món đồ chơi và những sản phẩm khác liên quan đến những bộ phim
của Disney. Jack Welch nhận thấy khách hàng của GE đã không còn đánh giá
cao giá trị sản phẩm và quan tâm nhiều hơn đến các dịch vụ và sự huy
động vốn. Và Bill Gates nhận thấy rằng, những vấn đề khách hàng quan tâm
luôn thay đổi trong nền công nghiệp máy tính - từ ngôn ngữ cho đến
những hệ thống điều hành, tới sự ứng dụng đến sự giao tiếp rồi đến
Internet. Những ví dụ trên và nhiều ví dụ khác như viễn cảnh độc nhất về
quyền lực khách hàng của Intel và sự tận tâm của ASEA Brown Boveri’s
(ABB) để phục vụ tốt nhất một vài nhóm khách hàng đặc biệt, sẽ được thảo
luận trong Phần II.
NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TÂM THẦM LẶNG: GIẢI MÃ CÁC HỆ THỐNG TIÊU CHÍ KINH TẾ
Ngay
cả việc đặt ra những câu hỏi đúng với đúng người cũng không luôn luôn
cung cấp cho nhà quản lý đầy đủ thông tin bởi vì không phải tất cả nhu
cầu của khách hàng đều ăn khớp với nhau. Mỗi khách hàng đều có một loạt
những nhu cầu - một số được nói ra, nhưng số còn lại là những nhu cầu
thầm lặng .
Thách
thức đặt ra đối với những nhà quản lý là phải nhận thức rõ được những
nhu cầu được nói ra nhưng họ cũng phải có mức sáng tạo tương đối cao để
khám phá những nhu cầu thầm lặng. Khách hàng không phải lúc nào
cũng có thể truyền đạt toàn bộ những nhu cầu của họ, một vài nhu cầu
không được nói ra, được diễn đạt một cách nghèo nàn, hoặc không ăn khớp
với nhau bởi các công ty được tổ chức thành những khoang (silo) riêng và
những silos khác nhau không nói hoặc chia sẻ thông tin với những silos
khác. Trong bối cảnh kinh doanh ngày nay, công việc của những nhà cung
cấp là xác định những nhu cầu thầm lặng này, định nghĩa chúng và mang
đến cho chúng một tiếng nói trong quy trình ra quyết định của nhà cung
cấp.
Một
trong những công cụ quyền lực nhất để khám phá ra những nhu cầu thầm
lặng, được diễn đạt không rõ, thất thường, và không được biết đến - đó
là việc phân tích những tiêu chí kinh tế của khách hàng (Minh họa 2.5),
mà không cần chú ý tới việc khách hàng của bạn là khách hàng công
nghiệp, một gia đình hay là một cá nhân.
Một
hệ thống tiêu chí kinh tế của khách hàng bao gồm lượng tiền phải trả
cho sản phẩm hay dịch vụ; những chi phí để sử dụng, lưu trữ và vứt bỏ
sản phẩm đó; thời gian để mua sản phẩm và việc sử dụng mẫu và những rắc
rối phải chịu đựng hoặc trải qua trong toàn bộ quá trình. Tóm lại, nó là
tiền (đô la), thời gian, và những rắc rối mà khách hàng phải “trả” để
mua và sử dụng sản phẩm hay dịch vụ. Nó là chiếc “hộp lớn” - giá trị
kinh tế của khách hàng, phát triển bên ngoài chiếc “hộp nhỏ” - những sản
phẩm của bạn.
Hầu
hết khách hàng đều không biết những tiêu chí kinh tế riêng của họ. Họ
có thể cảm nhận và ý thức được nó, nhưng họ lại không biết đến nó. Cho
đến tận gần đây, ngành ô tô vẫn chưa nhận thức được đầy đủ những tiêu
chí kinh tế của chiếc bảng điều khiển, một cánh cửa hay một hệ thống
ngoại vi. Hầu hết các gia đình đều không biết đến những tiêu chí kinh tế
của gia đình họ để mua và duy trì việc đi lại. Đối với nhiều người, nó
có thể là một con số khá bất ngờ.
Thực
tế thì hầu hết khách hàng đều không biết rằng những tiêu chí kinh tế
thực sự của riêng họ lại là những thông tin tuyệt vời cho các nhà cung
cấp. Chúng ẩn chứa những cơ hội lớn lao để giành lợi nhuận.
Disney
đã lọai bỏ những rắc rối khi chào bán dịch vụ nghỉ ngơi cho các gia
đình. Intel đã làm cho khách hàng có thể dễ dàng hơn trong việc ứng dụng
những con chip của hãng. Microsoft đã mang đến cho khách hàng những
tiêu chuẩn, sự tiện nghi trong việc sử dụng và một số ứng dụng mang
tính ưu việt. Tất cả những nhà cung cấp này đã mang đến những gì vượt
xa sức duy tượng của bất kỳ ai.
Thực
sự là việc hiểu được những tiêu chí kinh tế của khách hàng mang đến
những lợi ích khổng lồ cho các nhà cung cấp. Nó đặt họ vào một vị trí
thích đáng để trả lời cho câu hỏi:
Làm thế nào chúng ta có thể thực sự gia tăng giá trị cho khách hàng?
Câu
trả lời cho câu hỏi này sẽ dẫn đến sự thay đổi trong toàn ngành. Trong
suốt những năm 80, có đến 8 tỷ đô la tiền mẫu giấy kinh doanh được bán
trên toàn nước Mỹ mỗi năm. Sự ưu tiên của các đại lý mua hàng, những
người chịu trách nhiệm mua các mẫu này, phản ánh trạng thái kinh tế
trong vị trí của họ: phải tuân thủ ngân sách, áp lực về thời gian, và
phải đạt được các yêu cầu tối thiểu về chất lượng. Các công ty thành
công là những công ty có thể cung cấp những mẫu có chất lượng cao, giá
thành thấp và giao hàng nhanh.
Vào
đầu những năm 90, các nhà quản lý tại các khách hàng lớn tiêu dùng các
mẫu giấy như bảo hiểm, ngân hàng và bệnh viện bắt đầu tìm kiếm các
phương thức để giảm chi phí của mình. Sau khi xem xét toàn bộ hệ thống
liên quan đến mẫu, họ nhận ra rằng chi phí cho một mẫu giấy này chỉ là
phần nổi của tảng băng. Đối với mỗi đô la tiêu dùng cho mẫu giấy, các tổ
chức phải chi ra 20 đô la để điền, copy, gửi đi, sửa đổi, lưu trữ và
cuối cùng là vứt bỏ nó.
Nhận
xét này đã nâng tầng vấn đề về các hệ thống lưu trữ tài liệu
trong mỗi công việc của tổ chức, và việc ra quyết định bắt đầu được
chuyển từ nhân viên mua hàng sang các nhà quản lý cấp cap. Mối quan tâm
của khách hàng thay đổi nhanh chóng. Việc tiết kiệm vài đồng trên mỗi
đô la tiền mẫu giấy không còn có nhiều ý nghĩa nữa. Thay vào đó, khách
hàng đề nghị: “Hãy giúp tổ chức của chúng tôi – vốn đang dùng 20.000
kiểu mẫu giấy khác nhau – chuyển từ mẫu giấy sang hệ thống mẫu điện tử
để chúng tôi có thể giảm chi phí toàn hệ thống từ 20 đô la xuống 10 đô
la.”
Các
công ty mẫu giấy chấp nhận đáp ứng yêu cầu mới của khách hàng đã tạo ra
những giá trị khổng lồ cho khách hàng và cho chính bản thân họ. Những
công ty không thể tìm ra được điều đó cung cấp một sản phẩm không phù
hợp cho những đối tượng khách hàng khác nhau.
Để
có được một sự phân tích chính xác và hệ thống các tiêu chí kinh tế
cũng như sự thay đổi các mối quan tâm của khách hàng, các nhà quản lý
nên khai thác mọi công cụ mà họ có thể sử dụng theo ý muốn của mình.
Các công ty đã phát triển đang có lợi thế trong việc dễ dàng tiếp cận
với khách hàng, nhưng đó lại chính là tài sản ít được sử dụng nhất của
họ. Các công ty mới khởi nghiệp như Microsoft xoay sở và tìm mọi cách để
đến được với những khách hàng đầu tiên của mình. Các công ty đã phát
triển như IBM và DEC có thể dễ dàng tiếp cận đến bất kỳ khách hàng hay
viễn cảnh nào trên thị trường, nhưng đó lại là một lợi thế cạnh tranh
mạnh mà họ không sử dụng.
Số
ít các công ty sử dụng các phương thức tiếp cận khách hàng hiếm khi
tiến hành bước quan trọng thứ hai: tạo ra một luồng thông tin mật và
thường là độc quyền từ các khách hàng chính – hoặc quan trọng hơn, là từ
một đại diện thị trường thực sự của nhiều nhóm khách hàng – đến chính
công ty. Trong môi trường kinh doanh quá năng động như hiện nay, luồng
thông tin này có thể là tài sản vô giá của mỗi công ty. Đó chính là một
ngịch lý kéo dài do đó một số các tổ chức tập trung và hệ thống hóa các
thông tin về khách hàng chiến lược và biến chúng thành một hiểu biết
không gì sánh được về những gì mà khách hàng thực sự sẽ quan tâm.
MỞ RỘNG TRƯỜNG NHÌN KHÁCH HÀNG
Giải
mã bí mật về sự thay đổi những tiêu chí của khách hàng là nhiệm vụ khó
khăn nhất trong kinh doanh. Không có một phương pháp riêng biệt nào để
phá vỡ bí mật đó, cũng không có bất kỳ một khách hàng nào trong một tổ
chức mua hàng nào- dù đó là một người mua hàng công nghiệp hay một gia
đình- có thể đưa ra câu trả lời toàn vẹn.
Trong
trật tự nền kinh tế trước đây, người ta tập trung vào khách hàng trực
tiếp. Ngày nay, trong kinh doanh người ta không còn tập trung một cách
“xa xỉ” vào khách hàng trước mắt. Để tìm kiếm và giữ khách hàng, viễn
cảnh của chúng ta phải được mở rộng một cách triệt để. Trong một thế
giới của sự dịch chuyển giá trị, tầm nhìn của chúng ta phải bao gồm hai,
ba hoặc thậm chí bốn khách hàng dọc theo chuỗi giá trị. Vì vậy, ví dụ
như một nhà cung cấp thành phần phải hiểu được những động cơ kinh tế của
nhà sản xuất - những người mua những thành phần đó; nhà phân phối -
những người sẽ lấy sản phẩm của nhà sản xuất để bán và người tiêu dùng
cuối cùng.
Hiện
tượng này diễn ra trong tất cả các ngành kinh doanh ngày nay. Ví dụ,
những nhà kinh doanh xuất bản phải hiểu những người bán sách, những
công ty mua sách và cá nhân những người đọc sách trong những công ty đó. Những nhà quản lý khách sạn phải hiểu các đại lý du lịch, những công ty có tổ chức các cuộc họp ngoài văn phòng, và nguồn nhân lực tổ chức những cuộc họp ấy và những người tại công ty sẽ tham dự những cuộc họp đó.
Việc
mở rộng tầm nhìn về khách hàng thực sự là quan trọng đối với một mô
hình kinh doanh thông minh. Nó mở ra tâm trí ra để đến với những khả
năng mới và những sáng tạo sinh lời mới trong việc lựa chọn khách hàng.
Trong 3 hay 4 khách hàng tiềm năng cho trước, ai sẽ là người quan trọng
nhất? Mô hình kinh doanh nên tập trung chủ yếu vào ai? Sự đổi mới trong
việc lựa chọn khách hàng trở thành một yếu tố then chốt trong một vài
những thành tựu mô hình kinh doanh lỗi lạc nhất của những nhà thiết kế
mô hình kinh doanh.
VƯỢT XA TÍNH GIÁN ĐOẠN, TIẾN TỚI TÍNH LIÊN TỤC
Những
mô hình nghiên cứu thị trường truyền thống nỗ lực đánh giá khách hàng
qua từng giai đoạn bằng cách đưa ra cho họ một loạt những câu hỏi và
xác định sự thay đổi. Tần suất của những điều tra khảo sát này tùy thuộc
vào thị trường, nhưng sự thay đổi được xác định theo các thời điểm ngắt
quãng khi tiến hành khảo sát. Nhu cầu phân tích khách hàng chiến lược
dịch chuyển từ phương pháp tiếp cận mang tính gián đoạn để tạo nên những
cuộc đối thoại không ngừng với các khách hàng quan trọng nhất của thị
trường.
Việc
tạo nên một dòng thông tin khách hàng liên tục trong và ngoài tổ chức
của bạn có thể giúp cho vấn đề quản lý trở nên nhạy cảm hơn với những mô
hình kinh doanh mang tính cạnh tranh mới, những mô hình mà có thể bất
ngờ thu hút người mua và với sự thay đổi môi trường ra quyết định trong
khách hàng. Những hoạt động kinh doanh thiếu sự giao tiếp liên tục này
thường bị bất ngờ khi những đơn đặt hàng không đến vào cuối quý bởi vì
khách hàng đã chuyển sang dùng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Việc
nghiên cứu thị trường mang tính gián đoạn đưa đến những hiểu biết lạc
hậu. Sự giao tiếp liên tục với khách hàng mới mang đến những hiểu biết
thực sự về hiện tại và ý niệm đại cương về tương lai.
LƯỜNG TRƯỚC SỰ THAY ĐỔI TRONG NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TÂM CỦA KHÁCH HÀNG
Câu
hỏi quan trọng đối với mô hình kinh doanh lấy khách hàng làm trung tâm
không phải là những vấn đề quan tâm của một khách hàng hiện nay là gì
(trò chơi đó đã kết thúc rồi) mà là những vấn đề quan tâm của một khách
hàng sẽ là gì vào ngày mai? Việc trả lời được cho câu hỏi đó đòi hỏi
phải đấu tranh quyết liệt với tương lai hoặc thậm chí phải thỏa mãn một
mức độ tiên đoán hay ít nhất là sự đề phòng. Lợi thế của sự khám
phá phù hợp tăng đáng kể khi 3 điều sau xảy ra:
- Thông tin đến từ những nguồn có liên quan tại nhiều cấp độ từ tổ chức của khách hàng.
- Những
câu hỏi đưa ra không theo chuẩn mực, mang tính sáng tạo và tính thách
thức (ví dụ, “Tôi đang sợ tìm ra điều gì?”). Thậm chí những phân tích
mẫn cán, đa cấp bậc, đa góc cạnh và đa vùng miền sẽ thất bại nếu không
đưa ra những câu hỏi phù hợp.
- Có
sự cân bằng giữa việc hiểu cơ hội tiếp theo và việc nhận ra những rào
cản về tài chính, chính trị, kế toán và về mặt tổ chức trong việc nắm
bắt những cơ hội đó
Không
thể nào dự đoán chính xác 100% tương lai. Điều đó giải thích tại sao
chỉ 60- 70% có thể được dự đoán trước đã là quá quan trọng. Một bộ phận
nhỏ khách hàng cơ bản, chiếm không nhiều hơn 2-3% trong tổng số khách
hàng, có thể giúp thực hiện việc đó. Họ không phải là những khách hàng
mũi nhọn, những khách hàng phức tạp nhất và tiên tiến nhất về mặt công
nghệ. Thỉnh thoảng họ tiêu biểu cho tương lai, tuy nhiên họ không thường
như vậy. Họ có xu hướng chỉ là một phân khúc nhỏ đặc biệt thay vì là
một thị trường rộng lớn được tiên đoán trước.
Thay
cho những khách hàng mũi nhọn, chúng ta đang tìm kiếm những “khách hàng
định nghĩa tương lai”, những người mà những vấn đề, việc thực hành và
những giải pháp của họ hôm nay thể hiện điều gì sẽ là trung tâm của hành
vi ứng xử thị trường ngày mai.
XÂY DỰNG MÔ HÌNH KINH DOANH TIẾP THEO
Trang
bị cho mình sự hiểu biết về những vấn đề gì khách hàng của bạn sẽ quan
tâm ngày mai, bạn có thể bắt đầu tiến trình thiết lập mô hình kinh doanh
tiếp theo cho công ty của bạn. Hai ví dụ, một thuộc về lịch sử và một ở
hiện tại, minh họa những vấn đề khách hàng quan tâm đang thay đổi trong
công việc và những vận may khổng lồ mất đi và được giành lại trong quá
trình- vận may đến với những người “biết” vấn đề mà họ quan tâm là gì và
rời xa khỏi những người “không biết” điều đó; vận may sẽ đến với những
người thiết lập nên mô hình kinh doanh tiếp theo và rời xa những người
không làm vậy.
* * *
Từ
năm 1900 đến năm 1920, vấn đề quan tâm hàng đầu của khách hàng trong
ngành công nghiệp ô tô là sự vận chuyển đơn giản và đảm bảo. “Hãy cung
cấp cho tôi một chiếc ô tô chạy tốt với giá phải chăng,” một khách hàng
đã nói vậy. “Tôi nghe rõ những gì Ông/Bà nói”, Henry Ford, người xây
dựng Model T đã nói. Quan trọng hơn, Ford đã xây dựng một mô hình kinh
doanh siêu hợp nhất theo phương thẳng đứng mang đến Model T với số lượng
lớn đáng kinh ngạc và tỉ lệ tin cậy cao cùng chi phí thấp. Các khách
hàng đã hưởng ứng nhiệt liệt. Năm 1920, khoảng 22 triệu chiếc xe ô tô
được bán ra. Chiếc xe đáng tin cậy đến nỗi những chiếc Model Ts cổ đại
nhất hiện vẫn còn đang được sử dụng.
Cũng
trong thời gian này, thị phần của Ford đã tăng từ con số 0 lên tới 55%.
Hãng đã trở thành nhà sản xuất hàng đầu của nền công nghiệp ô tô.
Tuy
nhiên, trong thập niên 20, người tiêu dùng đã thay đổi một cách căn
bản. Họ đã trở nên giàu có - hoặc ít nhất là giàu hơn trước đây. Mối
quan tâm của người tiêu dùng về một chiếc ô tô mới không còn
là chuyện ăn chắc mặc bền nữa. Giờ đây, họ tuyên bố rằng “hãy cho
tôi màu sắc, phong cách và sự lựa chọn. Tôi có nhiều tiền hơn và sẵn
sàng chi nhiều hơn số tiền tôi có, vì vậy hãy cho tôi cơ hội đó. ”
Alfred Sloan đã lắng nghe điều này; Henry thì không.
Sloan
đã sáng tạo ra kim tự tháp sản phẩm và giá cả biến thiên (Chevrolet,
Pontiac, Oldsmoblie, Buick, Cadillac), cũng như việc cho vay tiền mua ô
tô và thiết kế mô hình kinh doanh chức năng hóa, một mô hình đã sản xuất
và bán ra dòng sản phẩm đa dạng một cách hiệu quả.
Trong
vòng một vài năm sau 1920, thị phần của Ford tụt giảm từ 55% xuống còn
12%. Trong hơn một nửa thế kỷ tiếp sau đó nó đã đánh mất vị trí
dẫn đầu trong nền công nghiệp ô tô .
Trong
suốt những năm 80, các công ty ứng dụng phần mềm đã thống trị thị
trường máy tính cá nhân bởi mối quan tâm hàng đầu của khách hàng lúc
bấy giờ là phần mềm nâng cao hiệu suất cá nhân. Bất kì một ứng dụng tốt
nào có thể tăng hiệu suất thì chắc chắn nó sẽ chiến thắng và mang lại
một đại dương lợi nhuận cho những nhà phát triển nó. Tuy nhiên, vào cuối
thập niên 80, những vấn đề quan tâm của khách hàng bắt đầu chuyển đổi
từ những ứng dụng đơn sang những gói thiết bị đa dụng. Những mô hình
kinh doanh lấy sản phẩm làm trung tâm của hầu hết những công ty ứng
dụng, những công ty cho rằng một sản phẩm tốt bản thân nó đã mang lại
lợi nhuận, đã không thể thay đổi và bắt kịp với sự thay đổi những vấn đề
mà khách hàng quan tâm. Lotus là một trong số một vài công ty “bắt kịp”
sự thay đổi này và bắt đầu thực hiện tốt hơn các đối thủ của nó bằng
cách thay đổi mô hình kinh doanh để đưa ra những thiết bị phù hợp nhất
cho khách hàng.
Đầu
thập niên 90, những vấn đề khách hàng quan tâm bắt đầu chuyển sang giao
tiếp qua mạng. Thư điện tử và phần mềm nhóm đã trở thành chìa khóa mới
cho sự tăng năng suất. Những vấn đề khách hàng quan tâm đang xác định
lại một vùng lợi nhuận mới và yêu cầu một mô hình kinh doanh mới.
Một
vài người ở Lotus muốn an phận trong việc kinh doanh các ứng dụng. Họ
bị mê hoặc bởi khả năng lợi nhuận trước đây của hãng. Nhưng khi vùng lợi
nhuận chuyển dịch, hãng này lại trở thành sân chơi của kẻ thất bại.
Cuối cùng, Lotus đã phải cố gắng để “bắt kịp” một lần nữa. Hãng này tìm
cách thỏa thuận với Nowell, một công ty dẫn đầu về mạng máy tính. Khi sự
thỏa thuận đó thất bại, Lotus đã tài trợ cho Notes và đã giành được cc:
Mail, dẫn đến sự thành công của những sản phẩm này với một mô hình kinh
doanh mới dựa trên lực lượng bán hàng trực tiếp chuyên nghiệp, một kênh
bán lại giá trị gia tăng (VAR: Value-added Reseller), những dịch vụ tư
vấn và sự liên minh. Phản ứng lại với sự thay đổi trong mối quan tâm của
khách hàng, Lotus đã đánh cược giá trị dài hạn của nó trong mô hình
kinh doanh tập trung vào tương lai của những sản phẩm giao tiếp.
Tóm
lại, Lotus là một công ty ứng dụng màn hình duy nhất ngoài Microsoft đã
chuyển sang giai đoạn tiếp theo của ngành công nghiệp lợi nhuận này. Có
đúng là IBM đã trả 3.5 triệu đô la cho mô hình kinh doanh giải mã
hoặc cài đặt Shrink-wrap từ những ngày huy hoàng
trước đây tại Lotus? Không. Nó đã trả cho giá trị được tạo ra bởi Lotus
từ 4 hoặc 5 năm trước, giá trị được thừa kế trong mô hình kinh doanh có
khả năng nắm bắt chu kì tăng trưởng giá trị tiếp theo trong ngành.
Kĩ
năng của mô hình kinh doanh lấy khách hàng làm trung tâm bắt đầu chỉ
với sự hiểu biết quan trọng nhất về khách hàng và hoat động trên cơ sở
những hiểu biết đó để thiết lập nên một mô hình kinh doanh phù hợp.
Trang bị cho mình quan điểm lấy khách hàng làm trung tâm một cách chân
thực, nhà quản lý sẽ luôn luôn có những quyết định khác về phạm vi. Câu
hỏi đầu tiên của họ sẽ không phải là về năng lực cạnh tranh cốt yếu mà
là về vấn đề liên quan đến khách hàng. Họ sẽ định hướng công ty của mình
làm những thứ mà khách hàng cần, muốn và sẵn sàng chi trả để có được
chúng.
Như
đã được chỉ ra trong một số trường hợp tăng trưởng nhanh chóng, phương
thức lấy khách hàng làm trung tâm sẽ làm thay đổi cơ bản những sản phẩm
bán ra và các hoạt động chuỗi giá trị của công ty. Sản phẩm bán ra sẽ
thay đổi từ những sản phẩm (những thứ đã trở nên thừa thãi) đến những
giải pháp (những cái khó có thể tạo ra). Những hoạt động mục tiêu của
công ty sẽ thay đổi từ “làm mọi thứ” hoặc “làm cái gì mà chúng ta làm
tốt” thành “làm những gì liên quan đến khách hàng” và “làm những gì
chúng ta có thể làm tốt nhất”. Thuê làm bên ngoài (Outsource) phần còn
lại, hoặc tìm kiếm những đối tác kinh doanh có thể cung cấp chúng cho
bạn.
Yếu
tố quan trọng sẽ là những vấn đề liên quan đến khách hàng, chứ không
phải là việc tập trung vào những gì một công ty biết cách làm như thế
nào. Nếu một kĩ năng liên quan đến khách hàng và không được đưa ra tại
thời điểm hiện tại, công ty phải phát triển nó, hoặc thuê nó hoặc giành
lấy nó, hoặc tìm một đối tác sẽ cung cấp nó cho công ty.
Cuối
cùng, phạm vi sẽ thay đổi khi những công ty thông thái chuyển đổi một
cách mạnh mẽ các sản phẩm bán ra của họ từ nội dung vật thể sang nội
dung về tri thức. Nội dung mang tính tri thức thường khó tạo ra hơn và
thường có giá trị cao hơn đối với khách hàng. Đó chính là cách thức tạo
ra giá trị trong tương lai.
Là
nhà quản lý kinh doanh trong một thế giới kinh doanh mới, tư duy lấy
khách hàng làm trung tâm sẽ là công cụ quyền lực nhất của bạn. Nhưng chỉ
có nó thôi thì chưa đủ. Tư duy lấy khách hàng làm trung tâm mà không đi
liền với tư duy lấy lợi nhuận làm trung tâm thì cuối cùng cũng vô ích.
Việc tạo ra những thứ vĩ đại cho khách hàng là thực sự cần thiết nhưng
chưa đủ. Lợi nhuận không đến một cách dễ dàng như chúng đã từng đến với
bạn trước đây. Bạn phải thiết kế một kế hoạch và cơ chế rõ ràng về việc
lợi nhuận sẽ đến như thế nào. Bạn cần phải suy nghĩ một cách có mục
tiêu, dứt khoát và nhanh về những hành động gì trong tương lai sẽ có thể
tạo ra lợi nhuận và mô hình tạo ra lợi nhuận của bạn chính xác sẽ là
gì.
Vùng lợi nhuận (The Profit Zone)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét