Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

Khoa học về các kí hiệu* 1



Terence Hawkes - Đinh Hồng Hải dịch
Lời người dịch: Các biểu tượng trong văn học nghệ thuật là một đối tượng nghiên cứu vô cùng rộng lớn. Tính đa nghĩa và trừu tượng của biểu tượng đôi khi khiến cho chúng ta bị “ngợp” trong rừng biểu tượng (the forest of symbols - thuật ngữ của Victor Turner). Để tiếp cận đối tượng vô cùng hấp dẫn nhưng cũng hết sức phức tạp này, nhà nghiên cứu không thể không có những “công cụ” nghiên cứu. Một trong những công cụ hiệu quả nhất để tiếp cận đối tượng nghiên cứu này là phương pháp luận của ký hiệu học trong khoa học về các ký hiệu. Ở Việt Nam hiện nay, ký hiệu học mới chỉ được tiếp cận ít nhiều dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, văn học,... mà chưa được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Thông qua bản dịch này chúng tôi muốn giới thiệu một cách nhìn sâu sắc đối với các hệ thống lý thuyết về ký hiệu học của Terence Hawkes với việc giới thiệu những góc nhìn khác nhau về cấu trúc luận và ký hiệu học. Qua đây, tác giả đã cho chúng ta thấy được cấu trúc luận và ký hiệu học quan hệ chặt chẽ với nhau như thế nào: “Sự hấp dẫn của hai lĩnh vực này về cơ bản không tách rời nhau và, trong dài hạn, cả hai đều cần phải được đưa vào một lĩnh vực thứ ba phù hợp hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực được gọi đơn giản là giao tiếp (communication). Với bối cảnh đó, bản thân cấu trúc luận sẽ trở nên nổi bật như một phương pháp phân tích kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học.” Khoa học về các ký hiệu chính là phần quan trọng nhất trong cuốn sách Cấu trúc luận và Ký hiệu học (Structuralism and Semiotics) của ông. Từ cách nhìn đó chúng ta có thể áp dụng được phần nào nền tảng lý thuyết căn bản này để làm công cụ trong việc tìm hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong văn học nghệ thuật.
Đinh Hồng Hải
Khái niệm của một “khoa học về các ký hiệu,” được hiểu một cách độc lập và (như những gì chúng ta đã đề cập trong trường hợp của một số khái niệm liên quan đến ngôn ngữ học) trong cùng một thời điểm được đưa ra bởi các nhà lý thuyết bên kia bờ Đại tây dương, đã trở thành một trong những khái niệm hiệu quả nhất bắt nguồn từ các nhà cấu trúc luận nói chung trong hai thập niên qua, và không dễ dàng gì để xác định nó. Cả hai thuật ngữ  semiologysemiotics đều được sử dụng để nói đến khoa học này, sự khác nhau duy nhất giữa chúng đó là semiology được những người châu Âu ưa thích, với sự tôn trọng đối với cách gọi của Saussure dành cho lĩnh vực này, và semiotics có xu hướng được những người nói tiếng Anh ưa thích hơn, với sự tôn trọng đối với cách gọi của nhà ký hiệu học người Mỹ Charles Sander Peirce[1]. Lĩnh vực ký hiệu học dĩ nhiên rất rộng lớn, bắt đầu từ những nghiên cứu về hành vi giao tiếp của các loài động vật (ký hiệu học động vật-zoosemiotics) tới những phân tích về các hệ thống ký hiệu biểu tượng như giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể con người (kinesics proxemics) các ký hiệu khứu giác (“sự mã hóa” của các mùi hương), lý thuyết mỹ học, và tu từ học[2]. Hầu hết, các ranh giới của nó (nếu có) đều có sự giáp giới với những gì thuộc về thuyết cấu trúc: sự hấp dẫn của hai lĩnh vực này về cơ bản không tách rời nhau và, trong dài hạn, cả hai đều cần phải được đưa vào một lĩnh vực thứ ba phù hợp hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực được gọi đơn giản là giao tiếp (communication). Với bối cảnh đó, bản thân cấu trúc luận sẽ trở nên nổi bật như một phương pháp phân tích kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học[3]. Do đó tôi sẽ cố gắng đưa ra những nét vắn tắt nhất về ký hiệu học trước khi thu hẹp phạm vi thảo luận với một sự cân nhắc kỹ lưỡng về một số những ẩn dụ dành cho những sinh viên ngành văn học.
Đã từng xảy ra những tranh luận rằng trong các xã hội loài người, ngôn ngữ rõ ràng đã đóng vai trò điều khiển và về cơ bản nó mang ý nghĩa chủ đạo của giao tiếp. Nhưng có thể thấy rõ rằng con người còn giao tiếp với nhau bằng các phương tiện phi ngôn từ khác và với những cách thức có hệ quả hoặc phi ngôn ngữ (mặc dù thể thức (mode) của ngôn ngữ vẫn đang hình thành và chi phối) hoặc nó phải có tác động ‘kéo giãn’ (stretching) khái niệm ngôn ngữ của chúng ta cho tới khi nó bao hàm các lĩnh vực phi ngôn từ. Trên thực tế, ‘kéo giãn’ chính xác là một thành tựu to lớn của ký hiệu học. ‘Những gì ký hiệu học đã khám phá ra,’ theo Julia Kristeva, ‘…đó chính là quy tắc chủ đạo (law governing) hoặc, nếu một ai đó muốn nhấn mạnh hơn, sự cưỡng bức diện rộng (major constraint) ảnh hưởng đến bất kỳ một hành động xã hội nào nằm trong cái thực tại mà nó biểu đạt; ví dụ khi nó được phát âm giống như một ngôn ngữ.’[4] Nói cách khác, không có ai chỉ giao tiếp bằng lời nói. Mọi hành động giao tiếp đều bao hàm trong đó sự chuyển tải những thông điệp thông qua ‘ngôn ngữ’của điệu bộ, cử chỉ, tư thế, trang phục, kiểu tóc, hương thơm, giọng nói, bối cảnh xã hội,v.v… từ trên xuống dưới, thậm chí ở cả những bất đồng với những gì ngôn từ thực sự muốn nói. Và thậm chí khi chúng ta không nói hoặc bắt buộc phải nói, những thông điệp từ những ‘ngôn ngữ’ khác cũng len đầy trong chúng ta: tiếng còi ô tô, tiếng thét, ánh đèn flash, những quy tắc hạn chế, những tuyên bố giữ lại, những mùi hương dễ chịu hoặc khó chịu, những khẩu vị thích thú hoặc ghê tởm, thậm chí ‘cảm nhận’ của những chủ thể có tính hệ thống kết nối những thứ có ý nghĩa đối với chúng ta. Vai trò của con người trong thế giới, như bối cảnh đã được đề cập, là tinh hoa của sự giao tiếp. Anh ta là, như Greimas đề cập, người gửi và nhận các thông tin: anh ta thu thập và phổ biến thông tin. Trong từ vựng của Edward Sapir, “mỗi một hình mẫu văn hóa và mỗi hành động đơn lẻ trong các hành vi xã hội đều có liên quan tới giao tiếp hoặc bằng các giác quan cụ thể hoặc tiềm ẩn.”[5]
Roman Jakobson đã đề xuất một cách tiếp cận đối với toàn bộ hệ thống ký hiệu này bắt đầu bằng việc cân nhắc tới những điểm bao quát căn bản như sau:
Mọi loại thông tin đều được tạo bởi các ký hiệu; tương ứng với điều đó, khoa học về các ký hiệu được gọi bằng thuật ngữ ký hiệu học có quan hệ với các yếu tố nền tảng cơ bản này là cơ sở cho cấu trúc của tất cả các ký hiệu bất kỳ loại nào, và với những đặc tính đối với nội hàm của chúng trong thông tin, cũng như với những đặc trưng riêng biệt của các hệ thống ký hiệu khác nhau, và trong vô vàn loại thông tin khác nhau sử dụng các loại ký hiệu khác nhau. ( “Ngôn ngữ trong mối liên hệ tới các hệ thống giao tiếp khác” Tuyển tập Roman Jakobson, Tập II, tr.698).
Nghiên cứu về các hệ thống ký hiệu hiện có, Jakobson tiếp tục, xuất phát từ một nhận thức sơ khai và một quan niệm cổ xưa cho rằng một ký hiệu có hai thể (aspect): ‘một thể nhận thức trực tiếp gọi là signans và một thể gián tiếp được gọi là signatum’ (Sđd, tr.699). Điều này về bản chất không có gì khác so với sự phân biệt giữa signifier (cái biểu đạt) và signified (cái được biểu đạt) được ghi lại bởi Sausure: cả hai nhân tố đều có chức năng giống như các khía cạnh trong ‘khối thống nhất không thể nào chia cắt’(indissoluble unity) của ký hiệu, và rất nhiều mối quan hệ khác nhau giữa chúng đã hình thành nên nền tảng của các cấu trúc ký hiệu học.
Trên thực tế, nhà sáng lập ký hiệu học Mỹ Charles Sander Peirce (1839- 1914), đã đưa đề xuất về sự phân loại các ký hiệu phức tạp một cách chính xác trong phạm vi của các mối quan hệ khác nhau mà mỗi cái sẽ biểu thị cho signanssignatum, hoặc signifiersignified. Với cách làm như vậy, ông cho rằng cái mà ông đang đối diện không phải gì khác mà chính là những nền tảng của logic học.
Với quan điểm của Peirce, logic học tồn tại một cách độc lập cả về mặt lý luận và thực tiễn. Những nền tảng cơ bản của nó không phải là các chân lý đương nhiên mà là những sự ‘xác định và phân loại’ (Tuyển tập C.S.Peirce, Tập 3, mục 149) và những điều này rút cục đến từ bản chất và chức năng của các ký hiệu[6]. Kết quả là, logic có thể được nhìn nhận như ‘một khoa học về các quy luật chung cần thiết của các ký hiệu’ (Sđd, tập 2, mục 227). Logic, đó chính là, khoa học về các ký hiệu.
Một ký hiệu hoặc sự đại diện (representamen - thuật ngữ của Peirce) chính là ‘một cái gì đó đại diện cho ai đó bằng một cái gì đó trong các quan hệ hoặc khả năng nào đó’ (sđd, tập 2, mục 228): nó là ‘mọi thứ để xác định một thứ gì khác (sự biểu thị của nó - it’s interpretant) để ám chỉ đến một đối tượng mà bản thân nó được quy vào (đối tượng của nó – it’s object)” (sđd, tập 2, mục 303). Vì vậy một ký hiệu đại diện cho một cái gì đó (đối tượng của nó); nó đại diện cho những gì đó của một ai đó (sự biểu thị của nó – its interpretant); và cuối cùng nó thay thế những gì của một ai đó trong một vài phương diện (các phương diện này được gọi là nền móng - ground của nó). Những khía cạnh đó, sự đại diện (representamen), đối tượng (object), sự biểu thị (interpretant) và nền móng (ground) do vậy có thể được xem như để đề cập đến các ý nghĩa mà các ký hiệu đã biểu đạt thông qua chúng; mối quan hệ giữa chúng quyết định bản chất rõ ràng đối với tiến trình của ký hiệu học.
Pierce cho rằng, các mối quan hệ thường liên quan tới ba yếu tố, sự đại diện hoặc ký hiệu, đối tượng, và nền móng trong ba loại cấu trúc ‘tam vị’ (triadic) hoặc ‘tam đoạn’ (trichotomies) còn một nhân tố thứ tư, sự biểu thị (interpretant), được cho là:
(a) “quan hệ tam vị so sánh” (triadic relations of comparison) hoặc những khả năng thuộc logic dựa trên loại ký hiệu. Đó là qualisign, “tính chất” này hoạt động như một ký hiệu một khi nó được thể hiện; sinsign, một sự vật hoặc hiện tượng có thật hoạt động đơn giản và đơn lẻ (singly – như đã đề cập ở tiền tố sin) là một ký hiệu; và legisin, một quy luật hoạt động như ký hiệu (ví dụ, không nằm trong cấu trúc của một đối tượng đơn độc nhưng là hành động trừu tượng của một bộ quy tắc hoặc các yếu tố cơ bản: ngữ pháp hoạt động giống như một legisin tuần hoàn trong ngôn ngữ).
(b) “quan hệ tam vị trình diễn” (triadic relations of performance) bao gồm toàn bộ thế giới thực, căn cứ vào loại nền móng. Đó là icon, một cái gì đó có chức năng giống như một ký hiệu thông qua ý nghĩa của những đặc trưng bản thân giống với đối tượng; index, một cái gì đó có chức năng giống như một ký hiệu bởi hệ quả thực tế hoặc quan hệ nhân quả với đối tượng; symbol, một cái gì đó có chức năng giống như một ký hiệu bởi một số ‘quy tắc’ theo thông lệ hoặc sự kết hợp theo thói quen giữa bản thân nó và đối tượng.
(c) “quan hệ tam vị tư tưởng” (triadic relations of thought) dựa trên loại đối tượng. Đó là rheme (hoặc seme), là một ký hiệu biểu thị khả năng hiểu biết về một đối tượng của cái biểu đạt, anh ta cần có cơ hội kích hoạt hóa hoặc viện dẫn đối tượng; dicent (hoặc dicisign hoặc pheme) là cái truyền đạt thông tin về đối tượng của nó, đối diện với một ký hiệu xuất phát từ những gì thông tin có thể được đưa ra; xét về lý, một ký hiệu của đối tượng rút cục không phải là một cái gì đơn lẻ mà là một quy tắc.
Peirce tiếp tục đề xuất về một vài kiểu kết hợp khác nhau của chín loại ký hiệu đã mô tả ở trên để tạo ra mười loại ký hiệu: ví dụ, một dicent-symbol-legisign (sự truyền đạt-ký hiệu-biểu tượng); một rhematic-indexical-sinsign (một biểu hiện-chỉ số-hiểu biết); dicent-indexical-sinsign (một biểu hiện-chỉ số-truyền dẫn),v.v... Các kiểu kết hợp giữa mười loại ký hiệu cơ bản đã tạo ra sáu mươi sáu (66) loại ký hiệu chi tiết hơn và những nhóm khác nhau trong thành tựu cơ bản hết sức quan trọng này trong phân tích của Peirce và hệ thống hóa logic[7].
Tính phức tạp trong hệ thống của Pierce rõ ràng nảy sinh từ thực tế rằng, từ quan điểm xuất phát của ông, bất cứ cái gì ở tình trạng cô lập, được kết nối với một thứ gì đó và ‘được diễn giải,’ đều có chức năng như một ký hiệu. Điều này có nghĩa là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất mà ở đó các ý niệm của ông về ký hiệu sẽ có tác dụng hữu ích đối với nhận thức luận: sự phân tích về quá trình ‘nhận biết’ chính nó; và làm sao có sự tri nhận đó. Cả hai đều hướng tới sự giản hoá, và bởi vì trọng tâm của nó đối với kinh nghiệm của chúng ta về thế giới thực, những người diễn giải của Pierce cho đến nay đều có ý định giới hạn sự chú ý của họ tới tính ứng dụng trong lý thuyết của ông vào lĩnh vực này. Theo Pierce, cái sườn chính cho sự tồn tại của tri thức có được từ sự khẳng định của những mệnh đề thông qua ‘bộ ba’ ký hiệu: icon, index, symbol. Bởi vậy tầm quan trọng của chúng yêu cầu chúng ta phải đưa ra một cái nhìn sâu sát hơn.
Trong icon, mối quan hệ giữa ký hiệu và đối tượng, hoặc cái biểu đạt và cái được biểu đạt, chứng tỏ, để sử dụng mệnh đề của Peirce, một ‘tổng thể các đặc tính’: một sự tương tự hoặc ‘ăn khớp’ tương đồng được đưa ra bởi ký hiệu, được thừa nhận bởi người nhận. Do đó một biểu đồ hoặc một bức tranh sẽ có mối quan hệ mang tính hình tượng đối với chủ thể của nó tới một khi thay thế được cho nó: đó là cái biểu đạt thay cho chủ thể được biểu đạt của nó theo lối hình tượng.
Trong index, mối quan hệ rất cụ thể, thực tế và thường là một sự liên tục, loại quan hệ nhân quả. Điểm căn bản ở đây chính là cái biểu đạt có mối quan hệ với cái được biểu đạt của nó là phương thức biểu thị. Một tiếng gõ lên cánh cửa chính là một sự biểu thị cho sự có mặt của một ai đó, và âm thanh của tiếng còi xe ô tô là một ký hiệu của sự có mặt của chiếc ô tô trong phương thức tương tự. Khói là một sự biểu thị của lửa. Một cái chong chóng đang quay là một sự biểu thị của hướng gió.
Trong symbol, mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mang tính tùy ý; nó yêu cầu sự hiện diện thực sự của người giải thích để đưa ra ý nghĩa của sự kết nối. Và đương nhiên, theo quan điểm của Sausure, chúng ta có thể nói rằng đa số sự biểu thị hệ thống của các ký hiệu trong phương thức này xuất hiện trong ngôn ngữ. Điểm cơ bản tôi muốn nhấn mạnh, hoặc quan sát của tôi về một chiếc lá có thể được cho rằng đó là sự biểu thị của một cái cây; nơi bức tranh hoặc biểu đồ của tôi về một cái cây lại tạo thành một hình tượng cây, cách nói của tôi về từ ‘cây’- tree (hoặc arbre, hoặc baum, hoặc arbor) chính là biểu tượng của cái cây bởi vì ở đó không cố hữu, sự cần thiết của tính ‘giống cây’ nằm trong cái biểu đạt: mối quan hệ của nó với một cái cây thực về cơ bản vẫn là tuỳ ý (hoặc ‘bị quy gán,’ như cách sử dụng thuật ngữ của Peirce) chỉ giữ được thông qua cấu trúc của ngôn ngữ nơi nó xuất hiện, mà không phải đề cập đến bất kỳ một lĩnh vực kinh nghiệm nào hơn thế.
Điểm quan trọng cần lưu ý ở đây chính là “bộ ba” liên quan tới nhau, không phải các loại ký hiệu loại trừ lẫn nhau, nhưng ba phương thức của một mối quan hệ giữa ký hiệu và đối tượng hoặc cái biểu đạt và cái được biểu đạt cùng tồn tại trong một hình mẫu của một hệ thống thứ bậc mà ở đó một cái có ưu thế vượt trội hơn hai cái kia. Như Jakobson đã quan sát, chúng ta có các hình tượng mang tính biểu tượng (symbolic icons), các biểu tượng mang tính hình tượng (iconic symbols),v.v... và một hình mẫu chiếm ưu thế sau cùng của ký hiệu sẽ phụ thuộc vào bối cảnh (context) sau cùng của nó (tiếng còi của một chiếc xe ô tô đã được sử dụng, trong một bộ phim, biểu đạt việc cấp cứu, sự an toàn, hơn là sự suy hiểm, thảm họa,v.v...). Vì vậy một tín hiệu giao thông có thể, trong các phạm vi của sự nhận thức, có thể được cho là để kết hợp sự biểu thị (chỉ ra một tình huống và yêu cầu ngay lập tức, một hành động có liên quan đến nhân quả) và biểu tượng (màu đỏ, trong xã hội của chúng ta, đó là tín hiệu ‘nguy hiểm,’ ‘yêu cầu dừng lại’; tín hiệu màu xanh thì ngược lại, và những màu sắc có liên quan này tùy thuộc vào tính đối ngẫu thông qua hệ thống tín hiệu đèn giao thông, như những biểu tượng).
Phân tích của Peirce đã cho chúng ta một sự hình dung đúng đắn về sự tồn tại của các loại ký hiệu, về cách mà các ký hiệu hoạt động, và những thủ tục gì chi phối cách sử dụng của chúng ta đối với chúng. Tầm quan trọng bao trùm các lý thuyết của ông và tính phức tạp của một loạt các bản viết của ông về chủ đề này có nghĩa rằng ý nghĩa về sự đóng góp của ông cho lý thuyết của ký hiệu học phải được thừa nhận một cách rộng khắp. Có lẽ sự gia tăng một cách nhanh chóng gần đây của mối quan tâm tới chủ đề này rút cục sẽ công nhận vị thế thực sự của ông.
Trong khi đó, rất nhiều ý kiến khác cũng được lắng nghe[8], và trong sự thiếu vắng của một sự nhất trí toàn thể để chấp nhận lý thuyết của ký hiệu học, giờ đây chúng ta có thể đạt được một vài cách hiểu hữu ích hơn nữa bằng cách từ Mỹ quay trở lại với châu Âu, và từ một ‘cha đẻ’ của ký hiệu học tới những người khác: tới phương thức giao tiếp ngôn ngữ được đưa ra bởi Saussure.
Một trong những người làm sáng tỏ rõ nhất về chủ đề ký hiệu học theo quan điểm của Saussure chính là Roland Barthes. Trong một bài tiểu luận của ông “Huyền thoại ngày nay”[9] ông đã đưa ra một trường hợp rằng bất kỳ một phân tích về ký hiệu học nào đều phải mặc nhiên công nhận mối quan hệ giữa hai thuật ngữ cái biểu đạt cái được biểu đạt điều này không phải là một cái gì đó thuộc về ‘tính ngang bằng’ mà là thuộc về ‘tính tương đương.’ Những gì chúng ta nắm giữ được trong mối quan hệ này không phải là sự sắp xếp thứ tự liên tiếp bởi một thuật ngữ dẫn tới các thuật ngữ khác, mà là mối tương quan thống nhất chúng với nhau. Trong sự chú ý về ngôn ngữ  (như tôi đã đặt tên nó ở trên) ‘quan hệ cấu trúc’ giữa hình ảnh-âm thanh* (cái biểu đạt) và khái niệm (cái được biểu đạt) đã tạo nên những gì mà Saussure gọi là ký hiệu ngôn ngữ. Trong mối quan tâm về một hệ thống phi ngôn ngữ, Barthes cho rằng, ‘tổng thể liên kết’(associative total) này của cái biểu đạt và cái được biểu đạt đơn giản sẽ cấu thành ký hiệu.
Ví dụ của ông chính là một bó hoa hồng. Nó có thể được sử dụng để biểu đạt sự đam mê. Khi nó mang ý nghĩa như vậy, bó hoa hồng chính là cái biểu đạt, sự đam mê là cái được biểu đạt. Mối quan hệ giữa hai ‘tổng hòa liên kết’ này sẽ tạo ra thuật ngữ thứ ba, bó hoa hồng là một ký hiệu. Và, là một ký hiệu, điều rất quan trọng để hiểu rằng bó hoa hồng là một thứ tương đối khác so với bó hoa hồng khi là một cái biểu đạt: đó chỉ là, một sản phẩm của vườn tược. Khi là một cái biểu đạt, bó hoa hồng rỗng không, khi là một ký hiệu bó hoa hồng chứa đầy hàm ý. Cái đã làm đầy nó (với ý nghĩa) là một sự kết hợp giữa ý định của tôi với bản chất của các phương thức quy ước của xã hội và các kênh truyền tải đã đem đến cho tôi một loạt các phương tiện để đạt được mục đích. Loạt phương tiện này rất rộng lớn, nhưng đã được quy ước hóa và vì vậy rất hạn chế, và nó đã mang đến một hệ thống phức tạp về cách thức biểu đạt:
…đưa ra một viên đá cuội màu đen: tôi có thể dùng nó để biểu đạt theo một vài cách, nó chỉ là một cái biểu đạt; tuy nhiên nếu tôi cầm nó với một điều được biểu đạt đã được xác định (một án tử hình, ví dụ, trong một lá phiếu vô danh), nó sẽ trở thành một ký hiệu. (Mythologies, tr.113).
Tuy nhiên, quá trình biểu đạt không kết thúc ở đó, Barthes tiếp tục cân nhắc cách thức mà ở đó ‘huyền thoại’ biểu đạt trong xã hội (và thông qua ‘huyền thoại’ ông muốn nói, giống như những gì chúng ta nhìn thấy ở trên, thần thoại ‘cổ điển’ không giống như hệ thống phức tạp của các hình ảnh và tín ngưỡng mà một xã hội xây dựng nên để chống đỡ và xác nhận ý nghĩa tự thân của nó: ví dụ như kết cấu của ‘ý nghĩa’ trong hệ thống của nó).
Trong trường hợp của huyền thoại, ông cho rằng, chúng ta sẽ tìm lại quá trình biểu đạt gồm ba phần đã được mô tả ở trên: cái biểu đạt, cái được biểu đạt, và sản phẩm của chúng, ký hiệu. Tuy nhiên, huyền thoại vẫn có những nét riêng biệt mà ở đó nó luôn có chức năng giống như một hệ thống ký hiệu thứ hai được xây dựng trên nền tảng của một loạt ký hiệu đã tồn tại trước nó. Do đó nó đóng vai trò của một ký hiệu (ví dụ ‘tổng thể liên kết’ của cái biểu đạt và cái được biểu đạt) trong hệ thống đầu tiên sẽ trở thành một cái biểu đạt trong hệ thống thứ hai. Vì vậy, ở đâu ngôn ngữ cung cấp một phương thức cho những gì mà chúng ta gọi là ý nghĩa tiền đề (như trong trường hợp về bó hoa hồng), hình mẫu (hoặc tính thần thoại) cho ý nghĩa thứ hai sẽ phức tạp hơn:
Mọi thứ xảy ra như thể huyền thoại đã chuyển đổi hệ thống chính thức của ý nghĩa đầu tiên qua một bên. Khi sự chuyển đổi này là thiết yếu cho việc phân tích về huyền thoại, tôi sẽ trình bày nó theo cách dưới đây, nó sẽ được hiểu, đương nhiên, việc mô hình hóa ở đây chỉ là một phép ẩn dụ:
data/images/201205/hinhanh/07073449_ky hieu.jpg                                                                                       
Mythologies, tr.115
Nói cách khác, huyền thoại vận hành bằng cách đưa ra một ký hiệu đã được hình thành trước đó (với ‘đầy’ ý nghĩa biểu đạt) và ‘rút cạn’ nó cho đến khi nó trở thành một cái biểu đạt ‘trống rỗng.’ Một trong những ví dụ được biết đến nhiều nhất của Barthes được mô tả như sau:
Tôi đang ở hiệu cắt tóc, và một bản sao về Paris-Match được đưa đến cho tôi. Trên bìa ngoài, một người thanh niên da đen trong bộ đồng phục Pháp đang chào đón, với đôi mắt đang ngước lên, như dán vào một cờ tam tài. Tất cả đây là ý nghĩa của bức tranh. Tuy nhiên, cho dù có ngây thơ hay không, tôi nhìn thấy rất rõ những gì nó biểu đạt với tôi: rằng Pháp là một đế chế vĩ đại, rằng tất cả những người con của đất nước, không phân biệt sắc tộc, phục vụ một cách trung thành dưới quốc kỳ, và rằng ở đây sẽ không có câu trả lời nào tốt hơn cho những người phỉ báng chủ nghĩa thực dân đã được viện ra hơn là tỏ rõ nhiệt tâm bởi hình ảnh người da đen đang phục vụ cái gọi là những kẻ áp bức. Bởi vậy một lần nữa tôi lại đứng trước với một hệ thống ký hiệu học có ý nghĩa lớn hơn: đó là một cái biểu đạt, bản thân nó được hình thành bởi một hệ thống trước đó (một người lính da đen đang đưa ra một kiểu chào Pháp); đó là cái được biểu đạt (đó là một sự pha trộn có chủ tâm giữa tính chất Pháp với tính quân sự); cuối cùng, đó là sự có mặt của cái được biểu đạt thông qua cái biểu đạt (Mythologies, tr.116).   
Barthes tiếp tục đề xuất rằng thuật ngữ thứ ba trong huyền thoại (thuật ngữ mà trong ngôn ngữ chúng ta gọi là ký hiệu) nên được gọi là ý nghĩa biểu đạt (signification), rằng thuật ngữ đầu tiên (cái được biểu đạt) nên được gọi là hình mẫu (form) và thuật ngữ thứ hai (cái được biểu đạt) nên được gọi là khái niệm (concept). Vì vậy, tại vị trí đầu tiên của ý nghĩa biểu đạt, của ngôn ngữ, mối quan hệ của cái biểu đạt với cái được biểu đạt sẽ sản sinh ra ký hiệu, trong phần thứ hai của ý nghĩa biểu đạt, của thần thoại, mối quan hệ của hình mẫu ( ví dụ như vị trí thứ nhất của ký hiệu) với khái niệm sẽ sinh ra ý nghĩa biểu đạt
Với ý nghĩa biểu đạt chúng ta có, tất nhiên, bắt gặp một sức mạnh vô biên, bởi vì sự che dấu, được đạo diễn thành ý nghĩa ở một cấp độ mà ở đó một ấn tượng về ‘món quà của Chúa – god-given’ hoặc ‘tự nhiên – natural’ thực sự phổ biến, rộng lớn hơn bởi vì chúng ta không thể lĩnh hội quá trình được tạo ra theo cách thông thường. Phân tích của Barthes về tiến trình ký hiệu (semiosis), tiếp nối qua quan điểm của Sausure ở cấp độ này, bắt đầu đưa chúng ta tới ‘hậu trường – behind the scenes’ như nó đã từng tồn tại trong bản thân cấu trúc của thế giới chúng ta đang sống.        
Có thể thấy kết quả của quan niệm này khi Barthes áp dụng nó vào quá trình biểu đạt ý nghĩa mà chúng ta thường gọi là ‘nội hàm – denotation’ và ‘ngoại hàm[10] - connotation.’ ‘Nội hàm’ thông thường được chúng ta đưa ra với ý nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ tới ý nghĩa về những gì nó muốn nói tới; ‘ngoại hàm’ có ý nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ theo cách là nghĩa của của một cái gì đó hơn là những gì nó được nói ra. Và, đương nhiên ‘ngoại hàm’ là đặc điểm trọng tâm của ‘văn học’ hoặc ‘mỹ học’ trong việc sử dụng ngôn ngữ. Theo quan điểm của Barthes, ngoại hàm đại diện cho một ‘sự ăn khớp – gearing up’ từ nội hàm giống như huyền thoại đã được tạo ra từ ý nghĩa thông thường. Bởi vậy, ngoại hàm xuất hiện khi ký hiệu là kết quả của một mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trước đó trở thành cái biểu đạt xa hơn.
...hệ thống đầu tiên tiếp tục là nội hàm của hệ thống thứ hai… tức là biểu hiện của ngoại hàm. Bởi vậy chúng ta sẽ nói rằng một hệ thống hàm nghĩa là một hệ thống tạo ra sự biểu hiện (ví dụ cái biểu đạt) chính nó được cấu thành bởi một hệ thống biểu đạt: các trường hợp chung của ngoại hàm đương nhiên sẽ bao gồm những hệ thống phức tạp của các ngôn ngữ hình thành nên hệ thống đầu tiên (đó là, chẳng hạn như, trường hợp của văn học)[11].          
Nói tóm lại, những cái biểu đạt của ngoại hàm được tạo bởi các ký hiệu (cái biểu đạt có liên quan đến cái được biểu đạt) của hệ thống ý nghĩa, và điều này tạo ra ngoại hàm, và văn học ở tầm rộng, là một trong số ‘những hệ thống biểu đạt thứ hai’ mà chúng ta đặt đặc trưng lên trên toàn bộ ‘hệ thống ‘thứ nhất’ của ngôn ngữ.          
Ở đây cũng tồn tại một tình huống ngược lại khi ký hiệu của mối quan hệ trước cái biểu đạt-cái được biểu đạt đã trở thành cái được biểu đạt của một cái gì đó xa hơn. Trong trường hợp này, hệ thống ‘thứ hai’ trở thành một siêu ngữ (metalanguage). Đây chính là bối cảnh của bản thân ký hiệu học. Nó hoạt động như một siêu ngữ/siêu ngôn ngữ, trong khía cạnh của tiến trình ký hiệu (semiosis) được nghiên cứu.
Con người hiện ra trong bất kỳ khía cạnh nào của các cấu trúc ký hiệu học đều mang bản chất thâm căn cố đế phức tạp của các nhà sản xuất ký hiệu. Như đã đề cập trong tác phẩm của Levi-Strauss và những người khác, bất kỳ phương diện nào trong các hoạt động của con người đều chứa đựng khả năng tạo ra hoặc trở thành ký hiệu; chúng ta chỉ phải ‘kích hoạt’ nó theo đúng như những gì diễn ra trong các quá trình ở trên. Như Umberto Eco đã nói, một ký hiệu là bất kỳ cái gì có thể được dẫn ra giống như ‘sự thay thế ý nghĩa cho một cái gì khác.’[12] Như vậy, không có cái gì trong thế giới loài người chỉ đơn thuần vị lợi (utilitarian): thậm chí các công trình xây dựng thông thường nhất cũng tổ chức không gian theo một vài cách khác nhau, và trong quá trình biểu đạt, đưa ra một số loại thông tin về các vị thế xã hội, những giả định trước của nó có liên quan tới bản tính con người, chính trị, kinh tế, hơn thế họ công khai quan tâm tới nơi cư trú, giải trí, chăm sóc y tế, hoặc bất kỳ cái gì. Tất cả năm giác quan khứu giác, xúc giác, vị giác, thính giác, thị giác đều có chức năng trong quá trình hoạt động của ký hiệu: dù đó là người tạo ra ký hiệu hay người nhận ký hiệu. Việc sử dụng nước hoa, chất liệu quần áo, theo những cách mà ở đó các mùi được tạo ra bởi dấu hiệu tình trạng chế biến, vị trí, ‘cá tính’, ‘tính chất lạ’ làm nên rất nhiều vẻ. Hơn thế, mỗi giác quan phản ứng khác nhau đối với các hệ thống tín hiệu đã được phác họa để khai thác chúng trong các hệ thống thang bậc khác nhau. Có thể hình dung đó như là một ngôn ngữ nấu nướng, ở đó mỗi món ăn là một lời nói (parole), và trong mối quan hệ với vị giác là giác quan được khai thác nhiều nhất, mặc dù thị giác khứu giác đều có các vai trò của chúng. Công bằng mà nói, không có nghi ngờ gì về một ngôn ngữ của nước hoa và như Barthes chứng minh một cách đầy đủ chi tiết (với sự phức tạp, trong Systeme de la Mode - Hệ thống mốt của ông) về ‘thời trang’ và trong bài viết về thời trang ở phương diện rộng[13]. Dù vậy, như Jakobson đã đề cập, nó là bằng chứng cho thấy rằng ‘hệ thống ký hiệu được xã hội hóa, phong phú và thích hợp nhất trong xã hội loài người căn cứ vào cái nhìn và sự lắng nghe’ (sđd tr.701).          
Các ký hiệu thuộc âm thanh có sự khác biệt cơ bản về đặc điểm so với các ký hiệu thuộc hình ảnh. Đầu tiên là sử dụng thời gian, không phải không gian, như một nhân tố cấu trúc chính. Sau đó sử dụng không gian hơn là thời gian. Về phương diện âm thanh, các ký hiệu ‘thời gian’ có đặc tính biểu tượng: thị giác, các ký hiệu ‘không gian’ có đặc tính hình tượng. Các ký hiệu trước đó, đầy phức tạp, nhường chỗ cho lĩnh vực nghệ thuật có hình thức chủ yếu thuộc ngôn ngữ nói và âm nhạc. Sau đó, các ký hiệu nghe nhìn, nhường chỗ cho lĩnh vực nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc,v.v... Và đương nhiên, vượt ra khỏi sự khái quát hóa này, là những hình thức nghệ thuật được tạo ra bởi sự kết hợp của cả hai hình thức trên: kịch, opera, phim ảnh, truyền hình,v.v...
Các ký hiệu có thể vừa được tạo ra một cách hữu cơ (organically), bởi con người, vừa bằng công cụ (instrumentally), thông qua sự mở rộng công nghệ của con người. Ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu hữu cơ ‘tinh khiết’ nhất. Mọi ảnh hưởng từ sự biểu đạt của nó đều có nghĩa, và nó chỉ được tạo ra bởi con người. Khi có ‘sự mở rộng’ của con người, cái mà chúng ta gọi là trung gian (medium), một thành tố hữu cơ căn bản trở nên chiếm ưu thế so với những cái khác (điện thoại có được hiệu quả này về mặt tiếng nói; phim câm cũng có được hiệu quả tương tự về điệu bộ cơ thể) sau đó nó sẽ có tác động khó tránh tới tính chất của diễn ngôn (discourse). Đó là, phương tiện trung gian sẽ bắt đầu có tác động tới thông điệp. Khi điều này trở thành hình thái cực đoan, chúng ta sẽ nhận thấy bản thân mình phải đứng trước, không phải với một phương tiện trung gian với những sự truyền dẫn đơn giản một thông điệp được đóng gói sẵn, mà là một hệ thống ký hiệu tự trị (autonomous), với một “đời sống” của nó - đó là, những thông điệp - của chính bản thân nó.          
Một trong những ví dụ quan trọng nhất về quá trình này chính là hệ thống chữ viết của một ngôn ngữ. Mặc dù chúng ta, trải qua nhiều kinh nghiệm, đã thành thói quen với chính hệ thống chữ viết của mình, không nghi ngờ gì khi nó không đơn giản là việc ghi lại ngôn ngữ của chúng ta. Như Jakobson đã đề cập:

Ngôn ngữ chữ viết có thiên hướng phát triển các thuộc tính cấu trúc cá biệt của nó nên lịch sử của hai ngôn ngữ khác biệt hàng đầu, nói và viết, là sự phong phú trong mối quan hệ biện chứng giữa những những tính kháng cự và hấp dẫn đan xen (sđd tr.706).
           
Và do đó, khi chúng ta đưa câu hỏi ký hiệu học có thể đóng góp gì cho nghiên cứu về văn học, ‘thuộc tính cấu trúc cá biệt’ của chữ viết rõ ràng sẽ là yếu tố trọng yếu, như chúng hình thành, về mặt ký hiệu học, phần lớn những gì trong mọi bản viết truyền đạt. Chữ viết, sau tất cả, kết hợp hai loại của ký hiệu. Ngôn ngữ, thông thường có thuộc tính âm thanh, tạo ra hình ảnh thị giác khi nó được viết ra hoặc được thể hiện dưới hình thức in ấn. Đối với vai trò của ký hiệu âm thanh thuộc thời gian giống như tác nhân cấu trúc của nó vì vậy mà được cộng thêm (và với một giác quan, quá trình này là một sự giảm bớt) vai trò của ký hiệu thị giác đối với không gian. Vì vậy chữ viết tác động mạnh tới ngôn ngữ bởi một tính chất tuyến tính, một tính chất liên tục và một sự tồn tại lý tính trong không gian mà ngôn ngữ nói không thể có được. Hơn nữa, những gì mà chúng ta đã đề cập ở trên, các ký hiệu âm thanh ‘thuộc thời gian’ có xu hướng (theo thuật ngữ của Peirce) mang đặc tính biểu tượng (symbolic), nơi các ký hiệu thị giác ‘thuộc không gian’ có xu hướng mang đặc tính hình tượng. Nó cho thấy rằng, trong ngôn ngữ chữ viết, cả hai loại ký hiệu sẽ luôn luôn có mặt và có khả năng biểu thị ý nghĩa.          
Vì vậy, hai thể loại (genres) đặc biệt của ngôn ngữ ở dạng chữ viết, thơ và văn xuôi, phát ra những thông điệp hình tượng về bản chất của chúng thông qua các ý nghĩa thị giác của thuật in máy trên (cũng như dưới) các thông điệp biểu tượng trong nội dung của chúng. Một bài thơ được ‘trình bày’ theo một hình thức khác với một đoạn văn xuôi: một tiểu thuyết ‘giống như’ một tiểu thuyết, không giống với một cuốn sách giáo khoa. Người viết có thể lựa chọn để tăng, hoặc giảm, sức mạnh cho thông điệp mang tính hình tượng, trong mối quan hệ với thông điệp mang tính biểu tượng được phát ra bởi ‘nội dung’ của bản viết, tuỳ thuộc vào tính chất của toàn bộ thông điệp mà tác giả muốn nói tới.          
Tác giả của, lời nói, một cuốn tiểu thuyết trinh thám, thường quan tâm chủ yếu tới nội dung, và sẽ có thể tìm thấy bất kỳ một thông điệp mang tính hình tượng nào hơn ‘đây là một cuốn tiểu thuyết trinh thám’ đơn thuần là một sự can thiệp. Nói cách khác, một tiểu thuyết gia như Joyce có thể mong muốn nâng mức độ hình tượng của toàn bộ thông điệp để từ đó khái quát hóa sự căng thẳng, sự châm biếm, bình luận xã hội,v.v... Vì vậy, một đoạn trong tác phẩm Ulysses, thông điệp hình tượng ‘đây là một cuốn tiểu thuyết’ đột nhiên thay đổi:
Đôi mắt câm lặng. Không hề gì. Có lẽ hối tiếc khi nhận ra anh ta. Kéo qua anh ta theo hướng đó.                    
Cám ơn. Chúng ta đã có một buổi sáng thật tuyệt vời.
GIỮA TRUNG TÂM THỦ PHỦ AI-LEN
TRƯỚC KHI NHỮNG ĐƯỜNG XE ĐIỆN CHÍNH CỦA NELSON CHẬM LẠI, CHUYỂN HƯỚNG, THAY ĐỔI toa xe, khởi đầu với Blackrock, Kingstown và Dalkey, Clonskea, Rathgar và Terenura…
NGƯỜI MANG MŨ MIỆN          
Dưới cổng vòm của bưu điện trung tâm những người đánh giày chào mời và đánh bóng…
(Ulysses, tr.107-8)
- và chuyển thành ‘đây là một tờ báo.’
Tương tự như vậy, đoạn văn sau trong tiểu thuyết của Christine Brooke Rose THÔNG QUA việc sử dụng thông điệp biểu tượng ở mức độ cao:             
Trừ phi chiếc gương được dời tới
                                                                 đột ngột cách ly
          Chẳng nhìn thấy gì trong
                                                            thực tại
                                                      của
                                               cái
                                     ý nghĩ
                              và
                       không

tất cả với người kể câu chuyện này dù đó chỉ là một cách nói khi chữ viết bằng cách nào đó tồn tại nhưng với các mức độ khác nhau trong sự thể hiện theo sở thích hoặc muốn nhấn mạnh khoảng cách câu chữ hoặc ở một loạt sự biểu đạt âm thanh
giống như Ali Nouremin không râu
Marx không ghi chép mà nhìn chăm chú
                                 với đôi mắt mê hồn đã phá vỡ
chuỗi rời rạc với một cái nhìn chăm chú
Nhưng nó cần điều chỉnh (tr.32)
Trong các bài thơ sau, cả E.E.Cummings và William Carlos William đều dựa vào thị giác, những ký hiệu hình tượng giống như những thành phần quan trọng của toàn bộ thông điệp:
‘dĩ nhiên là sẽ đến châu Mỹ thần tiên
tôi yêu em vùng đất của những hành giả luôn hướng về phía trước
rằng em có thấy ánh ban mai rực rỡ
đất nước đó thuộc về những thế kỷ đến và đi
và chúng ta chẳng phải lo lắng một điều gì
trong mọi ngôn ngữ dù câm-hay-điếc
bởi những người con vinh quang đã hiến máu đào
bởi những lời ca thán ngọt ngào
về cái đẹp có gì hơn những người đã mất
như vinh quang của những anh hùng
ai xông lên như sư tử trong những cuộc tàn sát
chẳng hề nghĩ xem họ đã chết vì điều gì
rồi tiếng nói tự do sẽ trở nên câm lặng?’




* Bài này trích trong cuốn sách Cấu trúc luận và Ký hiệu học (Structuralism and Semiotics) của Terence Hawkes, Nxb. Đại học California ấn hành tại Hoa Kỳ năm 1977. Phần dịch nằm trong chương 4: A science of signs (Khoa học về các ký hiệu), tr.123-150.
[1] Xem trong ghi chép xuất sắc của Pierre Guiraud, Semiology, tr.1-4
[2] Xem trong nghiên cứu phần nào làm nản chí của Umberto Eco, A Theory of Semiotics, tr.9-14
[3] Đề xuất của Barthes về việc đảo ngược hệ thống thang bậc của Saussure và đề cử ký hiệu học như một phần của ngôn ngữ học, Elementary of Semiology, tr.II
[4] Julia Kristeva, ‘Hệ thống và chủ đề nói,’ Times Literary Supplement, 12/10/1973, tr.1249.
[5] Tuyển tập ngôn ngữ, văn hóa, và nhân cách (Selected Writings in Language, Culture and Personality, tr.104.
[6] Các nguồn tham khảo chính là Các bài báo sưu tầm của C.S.Peirce (8 tập), Charles Hartshorne, Paul Weiss và  Arthur W.Burk (Cambridge, Mass: tạp chí của đại học Harvard, 1931-58). Một biên tập toàn diện 15 quyển về tác phẩm của Peirce với sự biên soạn sẵn: xem trong Bibliography, p.180. Tác phẩm Một sự giới thiệu về triết học của Piece của James K.Feibleman (London: Allen & Unwin, 1960) đưa ra một bài bình luận đầy hữu ích và hệ thống hóa tác phẩm của Peirce. Xem cụ thể, tr. 81-95 và 197.
[7] Trong một bài phê bình gay gắt trong các phạm trù của Peircce, xem của Umberto Eco, sđd, tr. 178
[8] Một ý kiến hay về một loạt tác phẩm gần đây có thể được có được từ hai vấn đề của Times Liteary Supplement đã bình bầu cho chủ đề này dưới nhan đề “The Tell- Tale Sign: một nghiên cứu về ký hiệu học” 5 và 12/10/1973; trong tác phẩm gần đây của Umberto Eco A Theory of Semiotics, đã đưa ra một ý hay, một cách khái quát, ghi chép về luồng tư tưởng “ state of play” và tác phẩm Semiology của Pierre Guiraud, mặc dù ít cập nhật hơn, cũng đã tìm cách giải quyết vấn đề trọng tâm một cách đáng nể.
[9] Thông tin này nằm ở phần cuối của Mythologies, tr.109- 59.
* Thuật ngữ sound-image chúng tôi dịch là hình ảnh-âm thanh, một số dịch giả khác dịch là hình ảnh thính giác (Trịnh Bá Đĩnh).
[10] Hiện nay thuật ngữ này chưa được sử dụng một cách thống nhất ở Việt Nam. Chẳng hạn, Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê) gọi là ngoại diên, một số tài liệu khác gọi là ngoại diện.
[11] Elements of Semiology, tr. 89-90. Câu trong dấu ngoặc đầu tiên do tôi lồng vào.
[12] Sđd tr.7
[13] Xem trong bản ghi chép của Barthes về “các hệ thống biểu thị” của áo quần, thức ăn, ô tô và đồ gia dụng, trong Các thành tố của ký hiệu (Elements of Semiology), tr. 25-30.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét