Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012
Mức độ cạnh tranh trong ngành ngân hàng Việt Nam
06:36
Hoàng Phong Nhã
No comments
Bài viết của ThS. Trịnh Việt Dũng)
Bài
viết này sử dụng mô hình của Michael Porter (Năm lực lượng của Porter -
Porter’s 5 forces) để nhìn vào thị trường ngân hàng Việt Nam và phân
tích những lực lượng cạnh tranh, các xu hướng phát triển cũng như cơ hội
khai thác để tạo nên lợi thế cạnh tranh phù hợp với nguồn lực của các
ngân hàng.
Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Nếu
các ngân hàng mới dễ dàng gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ
càng lúc càng gia tăng. Nguy cơ từ các ngân hàng mới sẽ phụ thuộc vào
“độ cao” của rào cản gia nhập. Theo các cam kết khi gia nhập WTO, lĩnh
vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình bảy năm. Ngành ngân hàng
đã có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài chính nước ngoài có thể
nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam và sự xuất hiện của các ngân
hàng 100% vốn nước ngoài.
Ngay
từ năm 2006, Việt Nam đã gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ
phần trong ngành ngân hàng của các định chế tài chính nước ngoài theo
cam kết trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ.
Còn
theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung về hợp tác thương mại
dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt Nam phải gỡ bỏ hoàn
toàn các quy định về khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị
giao dịch của các ngân hàng nước ngoài từ năm 2008.
Đã
có năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép thành lập tại Việt
Nam. Tuy nhiên khi nhìn vào con số các ngân hàng nước ngoài có văn phòng
đại diện tại Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài có vốn cổ phần trong
các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân hàng 100% vốn nước ngoài nhất
định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các
ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự xuất hiện của các ngân hàng
có nguồn gốc nội địa đang được nâng cao lên sau khi Chính phủ tạm ngưng
cấp phép thành lập ngân hàng mới từ tháng 8-2008. Ngoài các quy định về
vốn điều lệ, quãng thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng mới
thành lập còn bị giám sát chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên điều đó
sẽ không thể ngăn cản những doanh nghiệp, đủ điều kiện, tham gia vào
ngành ngân hàng một khi Chính phủ cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào
cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị trường
mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu
cũng như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân
hàng đã xây dựng được. Những điều này đặc biệt quan trọng bởi vì nó sẽ
quyết định khả năng tồn tại của một ngân hàng đang muốn gia nhập vào thị
trường Việt Nam.
Một
khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một thương hiệu
bền vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả và khác biệt
cộng với một cơ sở khách hàng đông đảo và trung thành, chi phí chuyển
đổi (switching cost) để lôi kéo khách hàng của ngân hàng mới thành lập
sẽ cực kỳ cao và do đó họ bắt buộc phải cân nhắc thật kỹ trước khi quyết
định gia nhập thị trường hay không. Thực tế trên thị trường ngành ngân
hàng Việt Nam cho thấy chi phí chuyển đổi nhìn chung không cao do các
ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác biệt về chiến lược sản phẩm,
dịch vụ.
Một
yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một chút và tạo một lợi
thế cạnh tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là hệ thống phân phối.
Các ngân hàng thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc rối trong việc tìm
một địa điểm ưng ý để đặt văn phòng chính cũng như các chi nhánh văn
phòng giao dịch bởi vì các vị trí đẹp và tiện lợi đều đã bị các ngân
hàng đang hoạt động dành mất. Tuy vậy, các ngân hàng thành lập sau này
vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để phát triển hệ thống kinh doanh
của mình thông qua Internet banking hoặc hệ thống ATM.
Nhìn
vào ngành ngân hàng Việt Nam hiện tại trong bối cảnh Việt Nam cũng như
thế giới đang bị bao trùm bởi cuộc khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập
khá cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng mới trong tương lai gần
là khá thấp. Nhưng một khi kinh tế thế giới hồi phục cộng với sự mở cửa
của ngành ngân hàng theo các cam kết với WTO và các tổ chức khác, sự
xuất hiện của các ngân hàng mới là một điều gần như chắc chắn.
Nguy cơ bị thay thế
Cơ bản mà nói, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có thể xếp vào 5 loại:
• Là nơi nhận các khoản tiền (lương, trợ cấp, cấp dưỡng…)
• Là nơi giữ tiền (tiết kiệm…)
• Là nơi thực hiện các chức năng thanh toán
• Là nơi cho vay tiền
• Là nơi hoạt động kiều hối
Đối
với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao
lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ,
hóa đơn trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà
xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách
hàng này thường chuyển sang sử dụng một ngân hàng khác vì những lý do
trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối
với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến
cho người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có
tài khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính
phủ và doanh nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các
phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài
chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng
thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang trọng, những nơi không
phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Ngay
ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ đợi nhân viên đi lấy máy
đọc thẻ hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử dụng thẻ để thanh toán.
Chính sự bất tiện này cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người
tiêu dùng muốn giữ và sử dụng tiền mặt hơn là thông qua ngân hàng.
Ngoài
hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có
khá nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các
hình thức bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu
tư vào nhà đất. Đó là chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi
hụi”. Không phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu
dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang sốt, tăng giảm đột biến
trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự do cũng biến động thì
lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7-8% một năm.
Quyền lực của khách hàng
Sự
kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ
là việc các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người
tiêu dùng không đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng
ai cũng có lý lẽ của mình nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức
độ hài lòng và lòng tin của khách hàng. Nhưng không vì thế mà ta có thể
đánh giá thấp quyền lực của khách hàng trong ngành ngân hàng tại Việt
Nam.
Điều
quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn
huy động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của
khách hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Trong khi đó, như đã
nói ở phần trên, nguy cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với
khách hàng tiêu dùng, là khá cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách
hàng gần như không mất mát gì nếu muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi
ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
Quyền lực của các nhà cung cấp
Khái
niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những
cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty
chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam
các ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà
cung cấp riêng tùy theo điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của
nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp cho cả một thị trường
lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên khi đã tốn
một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống, ngân hàng sẽ không muốn
thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này lại làm tăng quyền lực
của nhà cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền
lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì như thế nào? Không nhắc
đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị trường chứng khoán mà chỉ
nói đến những đại cổ đông có thể có tác động trực tiếp đến chiến lược
kinh doanh của một ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các ngân hàng Việt Nam
đều nhận đầu tư của một ngân hàng khác. Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng
lên rất nhiều nếu như họ có đủ cổ phần và việc sáp nhập với ngân hàng
được đầu tư có thể xảy ra. Ở một khía cạnh khác, ngân hàng đầu tư sẽ có
một tác động nhất định đến ngân hàng được đầu tư.
Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
Trong
năm 2008, McKinsey dự báo doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở Việt
Nam có thể tăng trưởng đến 25% trong vòng 5-10 năm tới, đưa Việt Nam
trở thành một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ cao nhất
châu Á. Tuy khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại,
tác động xấu tới ngành ngân hàng nhưng thị trường Việt Nam chưa được
khai phá hết, tiềm năng còn rất lớn. Ảnh hưởng tạm thời của cuộc khủng
hoảng kinh tế sẽ khiến cho các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm
kiếm khách hàng mới, dẫn đến việc cường độ cạnh tranh sẽ tăng lên. Nhưng
khi khủng hoảng kinh tế qua đi, với một thị trường tiềm năng còn lớn
như Việt Nam, các ngân hàng sẽ tập trung khai phá thị trường, tìm kiếm
khách hàng mới, dẫn đến cường độ cạnh tranh có thể giảm đi.
Cường
độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện của
nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có
một phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã
phục vụ những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi
khách hàng mở rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn
phòng đại diện theo.
Ngân
hàng ngoại cũng không vướng phải những rào cản mà hiện nay nhiều ngân
hàng trong nước đang mắc phải, điển hình là hạn mức cho vay chứng khoán,
nợ xấu trong cho vay bất động sản. Họ có lợi thế làm từ đầu và có nhiều
chọn lựa trong khi với không ít ngân hàng trong nước thì điều này là
không thể. Ngoài ra, ngân hàng ngoại còn có không ít lợi thế như hạ tầng
dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn
(điển hình là hệ thống Internet banking).
Quan
trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên
nhiều nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này,
các ngân hàng trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản
phẩm dịch vụ, nhân sự... khá quy mô. Lợi thế của ngân hàng trong nước là
mối quan hệ mật thiết với khách hàng có sẵn. Ngân hàng trong nước sẵn
sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối với những khách hàng quan
trọng của họ.
Xu hướng trong ngành ngân hàng
Hiện
nay Việt Nam đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng
thực sự mạnh tầm cỡ quốc tế. Nhìn chung, các ngân hàng đã đua nhau mở
rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn (phát triển theo chiều
rộng). Việc này dẫn đến tình trạng các ngân hàng đang cạnh tranh quyết
liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà quên mất các sản phẩm và dịch
vụ tiện ích kèm theo (chiều sâu). Đồng thời, các ngân hàng mở rộng quy
mô nhưng do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho nên công tác quản trị
lại không theo kịp quy mô phát triển.
Khủng
hoảng kinh tế cũng mang lại rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng, một
số ngân hàng đã không thể duy trì được mức tăng trưởng trong năm vừa
qua. Đây chính là cơ sở để nhiều chuyên gia về sáp nhập (M&A) đưa ra
nhận định rằng xu hướng sáp nhập trong ngành ngân hàng đang đến gần.
Tuy
nhiên, ngành ngân hàng là một trong những ngành nghề nhạy cảm, do vậy
việc sáp nhập chỉ có thể xảy ra trong vòng một, hai năm nữa khi ngành
ngân hàng đã được mở nhiều cửa hơn theo cam kết với WTO.
(Theo TBKTSG)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét