Qua nhiều cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế thế giới, mỗi nước đều có cách làm riêng để xử lý các tài sản rủi ro và nợ xấu, nhằm lưu thông dòng vốn trong nền kinh tế. Mỹ một mặt mạnh tay bơm vốn giải cứu ngân hàng nhưng lại không can thiệp sâu vào điều hành. Trung Quốc thành công nhờ trực diện xử lý nợ xấu doanh nghiệp nhà nước trong khi Nhật sẵn sàng cho tự sụp đổ nếu ngân hàng quá yếu kém.
Với Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall năm 2008 bắt nguồn từ bong bóng bất động sản tan vỡ – tình cảnh khá tương đồng với Việt Nam hiện nay. Để giải cứu những tổ chức tín dụng sắp “chết”, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định bơm 700 tỷ USD. Lượng tiền này được phân bổ một phần để mua lại nợ xấu ngân hàng thương mại, một phần dùng để giải quyết thanh khoản tạm thời cho những đơn vị yếu kém. Phần còn lại – nhưng chiếm tỷ trọng lớn – là để mua cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng.
Với mục đích thứ ba, FED lựa chọn mua cổ phiếu ưu đãi thay vì loại phổ thông. Cổ phiếu ưu đãi được hưởng mức cổ tức cố định, không phụ thuộc vào khả năng sinh lời nhưng lại không có quyền tham gia vào việc điều hành ngân hàng. FED chỉ muốn đẩy một ít dòng tiền để ngân hàng có vốn đầu tư và thoát khỏi tình trạng tồi tệ – về mặt bản chất chính là FED cho vay – nhưng họ chủ trương nắm quyền kiểm soát các ngân hàng nên việc họ chọn loại cổ phiếu ưu đãi như phân tích ở trên là rất thích hợp.
Nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam nên học cách làm của Mỹ để giải quyết bài toán hiện nay. Trao đổi với VnExpress, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia ngân hàng từng có kinh nghiệm làm việc ở Mỹ – nhìn nhận, cả 3 phương án của Mỹ đều phù hợp. Theo tính toán của ông, Việt Nam cần khoảng 7 tỷ USD để mua lại nợ xấu như phương án thứ nhất của Mỹ. Nếu để ngân hàng tự bán nợ xấu sẽ gây thiệt hại thêm bởi với chất lượng nợ như vậy, tỷ lệ chiết khấu rất cao, có thể lên tới 80%-90%.
“Tuy nhiên, với Việt Nam, cần lưu ý để không tạo nên cơ chế ‘xin – cho’ giữa ngân hàng và công ty mua bán nợ của Chính phủ hay Ngân hàng Nhà nước. Có thể xảy ra chuyện ngân hàng bán một khoản nợ đáng lẽ phải chiết khấu 50% thì họ chỉ cắt 30% thôi. Như vậy sẽ gây thiệt hại cho người dân, tư lợi cho ngân hàng”, chuyên gia này phân tích.
Phương án mua lại cổ phần giống như Mỹ cũng thích hợp với Việt Nam. Nhà nước không can dự vào công tác điều hành, quản lý sẽ tạo cơ hội tốt cho các ngân hàng tự tái cơ cấu. Lãnh đạo một ngân hàng thương mại cho rằng khi xử lý nợ xấu, với người đi vay chỉ đơn giản là thay đổi chủ nợ từ ngân hàng sang Chính phủ. Do đó, nếu ngân hàng “bó tay”, Chính phủ nên can thiệp vì chắc chắn sẽ thu hồi món nợ tốt hơn ngân hàng. Thậm chí, doanh nghiệp có thể có những “thực đơn” đa dạng hơn để tái đầu tư, phục hồi sản xuất.
Một bài học khác đến từ Trung Quốc. Cuối năm 1999, đầu 2000, nợ dưới chuẩn thực tế tại nhiều ngân hàng thậm chí còn vượt 40%. Chia sẻ với VnExpress.net, ông Hubert Knapp, Giám đốc điều hành, Dịch vụ Tư vấn Tài chính của Ernst & Young tại Việt Nam cho biết, một yếu tố khiến Trung Quốc thành công là xử lý triệt để các khoản nợ xấu, trong đó tỷ lệ lớn là nợ ở khối doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, khá tương đồng với Việt Nam, nợ của khối doanh nghiệp nhà nước tại Trung Quốc chiếm tới 70% tổng dư nợ. Khi đó, Trung Quốc lập 4 công ty quản lý tài sản để xử lý toàn bộ nợ dưới chuẩn ước tính lên tới 670 tỷ nhân dân tệ và trao quyền ngoại lệ cho những công ty này. Ngoài ra, Trung Quốc còn chi 40 tỷ ngân sách của năm 1998 để xóa nợ cho doanh nghiệp nhà nước và tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại bằng phát hành trái phiếu Chính phủ. Ông Hubert cho rằng với nhiều điểm tương đồng, Việt Nam nên tham khảo những biện pháp quyết liệt của Trung Quốc.
Cách thức tái cấp vốn qua trái phiếu cũng được Hungary sử dụng năm 1993 khi cho phép các ngân hàng chuyển nợ xấu hoặc nợ cũ sang trái phiếu chính phủ với một phiếu thưởng tương đương trái phiếu kho bạc 90 ngày. Bình luận về phương án này, một chuyên gia cho rằng đây là cách làm rất tốt. “Thay vì đẩy ‘tiền tươi’ (tiền mặt), có thể bơm bằng trái phiếu để giảm bớt gánh nặng. Như vậy, vừa không gây tăng cung tiền quá nhiều lại giúp các ngân hàng có sẵn tấm đệm thanh khoản bởi khi cần, có thể giao dịch lượng trái phiếu này bất cứ lúc nào”, vị này lý giải.
Đầu những năm 2000, Nhật Bản hứng chịu hàng nghìn tỷ yên nợ xấu với nguyên nhân tương tự Mỹ năm 2008 đến từ bong bóng bất động sản. Ban đầu, Nhật Bản bơm hàng nghìn tỷ yên vào các ngân hàng lớn hoặc lập hàng loạt các quỹ đầu tư có vốn góp của cả tư nhân để mua lại nợ xấu. Tuy nhiên, cả hai cách này đều chỉ như muối bỏ bể. Sau khi loay hoay nhiều phương sách nhưng vẫn thất bại, Nhật quyết định quốc hữu hóa các ngân hàng, loại bỏ các cổ đông, cho các nhà băng yếu kém nhiều nợ xấu tự sụp đổ… và đã thành công.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho rằng quốc hữu hóa cũng là giải pháp tốt nhưng không phải tối ưu. Theo ông, chỉ nên đặt ra nếu đó là ngân hàng nào có vai trò quá quan trọng trong nền kinh.
Trong khi đó, phương án dũng cảm cho ngân hàng quá yếu kém tự sụp đổ lại được ông và nhiều chuyên gia ủng hộ. Trao đổi với báo chí, Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm – Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước – từng nói, chính việc để ngân hàng phá sản chưa có tiền lệ đã khiến nhiều nhà băng yếu kém ỷ lại vì cho rằng nếu khó khăn sẽ được cứu.
Đồng quan điểm này, giám đốc một công ty chứng khoán cho rằng, một trong những nguyên nhân của nợ xấu tại Việt Nam là các ngân hàng mới chỉ bị ràng buộc tài chính “mềm”. “Ràng buộc tài chính mềm” là khi doanh nghiệp không quan tâm đến việc thua lỗ. Họ luôn tin rằng sẽ có Chính phủ hay một bên thứ ba nào đó đứng ra giải cứu khi họ đối mặt với phá sản”, vị này giải thích.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét