v
Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013
Lạm phát và những tác động đến đời sống kinh tế xã hội
Bản thân tiền giấy không có giá
trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng
thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại
trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.
v
Các quan điểm về lạm phát
Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định
nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát (inflation), nhưng nói chung chưa có
một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra
khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát
hành. Cụ thể người ta dự vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có
lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo
tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là
ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm
bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định
vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm
1934 đã tránh được nạn lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống
dưới 2%.
Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự
mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong
phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng
thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ được trao đổi (Y) giữ
vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc
độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc phục
tình trạng này cần dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối
giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy
giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm
phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của việc tăng
trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp không hẳn là
như vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ mà không làm cho giá cả
tăng, không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối
tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự
tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và
hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi
phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên
nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa.
Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ
bản của lạm phát mà thôi.
Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện
tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị
mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa tăng lên đồng loạt.
Lạm phát (inflation) có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo mức độ của nó.
Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem
lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể; còn lạm phát
cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với kinh tế
và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự
đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các thể chế có tiên
tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất
ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát
không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải
pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến
những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm
mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân
phối phát sinh từ những loại khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần
của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những ngươi có tài sản, những người
đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng
lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm
công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt
hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế
đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là lãi suất cần được điều chỉnh cho
phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực là 3%, tỷ lệ tăng giá
là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh cho
lãi suất phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong điều lạm
phát ở mức độ thấp.
Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến
mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó
có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho
các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ
và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan
hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và
ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà linh tế
học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc
làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu
sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự
đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì khi đó các nhà kinh
doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa có giá cả tăng lên
cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh,
hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi
vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông,
khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa
thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu
thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi,
lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước
so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất
khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và
siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng
khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng,nhiều ngân
hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lam phát phát triển nhanh,
biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm
trong giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo
thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư. Lạm phát gây
thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của
những khoản công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán
trước được làm cho nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị
suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà
nước thu được trong những trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng
dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta
nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể
thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm
phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó
tiền lương danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực
tế của người lao động nói chung có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi
chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi
mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và nhà nước phải áp dụng những biện
pháp thích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.
Theo ấn phẩm Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.


14:08
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét