1. Tất cả những gì phức tạp đều phải có người thiết kế ra (Complexity implies a designer).2. Vũ trụ là cực kỳ phức tạp (The universe is highly complex).3. Do đó, vũ trụ phải có người thiết kế (Therefore, the universe has a designer)
Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014
Tiếp cận tính huyền diệu và bí ẩn của thế giới
21:08
Hoàng Phong Nhã
No comments
Nghiên cứu vũ trụ, cơ thể sinh
vật và con người, người ta nhận thấy rằng thế giới chúng ta đang sống
thật là huyền diệu với vô số những điều bí ẩn mà khoa học cho đến nay
mới chỉ khám phá được một phần rất nhỏ.
Bản chất và nguồn gốc của chúng là
gì? Người ta vẫn còn đang chờ đợi những câu trả lời thật sự thoả đáng
đối với nhiều hiện tượng quan trọng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu những
cách tiếp cận khác nhau trong triết học sẽ giúp chúng ta có được một
phương hướng đúng đắn trong việc xem xét các hiện tượng phức tạp đó.
1. Lý do đặt vấn đề
Có một thắc mắc rất hay về nguồn gốc của những hiện tượng huyền diệu, bí ẩn của thế giới:
“Ngày hôm nay khoa học vẫn chưa thể
biết được ai đang điều khiển trái tim ta tự động đập hàng ngày. Lực
lượng nào đã phân định sự cân bằng giới tính trong xã hội ... Khoa học
chưa thể biết được vì sao và ai đã làm cho “Chúng ta” từ những điểm nhỏ
như một tế bào với sự tích hợp hàng tỷ tỷ phép tính bên trong nhằm thực
hiện một lập trình (mượn cách nói của CNTT) đến một mốc thời gian nào đó
với những điều kiện đã được tính trước, biết trước sẽ: Thoát thai -
biết nói - biết đi lại - mọc răng, lông – phát triển tư duy - có khả
năng sinh sản - trưởng thành đầy đủ - suy tàn rồi chết. Tình cờ chăng?”
Theo hướng này thì chúng ta có thể đặt
ra vô số những câu hỏi tương tự về vũ trụ, về sinh vật, về cơ thể con
người. Ngay cả những đầu óc khoa học vĩ đại nhất khi đối mặt với sự
huyền bí của vũ trụ cũng có những tình cảm tương tự. Albert Einstein đã
trăn trở như sau:
“Tôi tin vào sự huyền bí, và thú
thật, nhiều khi tôi đối mặt với sự huyền bí này với sự kinh sợ. Nói cách
khác, tôi nghĩ rằng có nhiều điều trong vũ trụ mà chúng ta chưa thể cảm
nhận và thâm nhập được, cũng như có nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống
chúng ta mới chỉ cảm nhận được ở một hình thức sơ khai mà thôi.”
Theo Einstein, những điều huyền diệu, bí ẩn của vũ trụ đã gây ra cho đầu óc có tư duy một “tình cảm khiêm nhường” (a feeling of humility), “một tình cảm tôn giáo chân chính” (a genuinely religious feeling), nhưng nó không liên quan gì đến chủ nghĩa thần bí (mysticism):
“Điều mà tôi nhận thấy được trong tự
nhiên đó là một cấu trúc tuyệt vời mà chúng ta mới chỉ có thể hiểu được
một cách rất không hoàn hảo, và điều đó không tránh khỏi đem lại cho con
người đang tư duy một tình cảm khiêm nhường. Đó là một tình cảm tôn
giáo chân chính không có liên quan gì đến chủ nghĩa thần bí cả.”
Bản chất của sự huyền bí đó là gì? Nguồn
gốc của chúng do đâu? Trả lời cho những câu hỏi này có mấy cách tiếp
cận của các khuynh hướng triết học khác nhau: Hữu thần luận, Phiếm thần
luận và Vô thần luận.
2. Cách tiếp cận của hữu thần luận
Hữu thần luận hay chủ nghĩa hữu thần (Theism) theo nghĩa rộng là khuynh hướng tư tưởng tin vào sự tồn tại của thần thánh nói chung. Hữu thần luận được dùng với nghĩa hẹp để chỉ niềm tin vào một vị thần tối cao, vạn năng, sáng tạo ra tất cả, quyết định tất cả.
Vị thần này được gọi bằng những tên khác nhau trong các ngôn ngữ khác
nhau. Kinh Veda và tín đồ Balamôn giáo gọi tên vị thần sản sinh ra dân
tộc Ấn là Brahman. Tín đồ Do Thái giáo gọi vị thần sáng tạo thế giới và
sinh ra hai con người đầu tiên là Adam và Eva, tổ tiên của dân tộc Do
Thái (về sau được quan niệm là tổ tiên của cả nhân loại) là Yahweh hoặc Jehovah. Trong tiếng Anh, vị thần này được gọi là God; tiếng Pháp là Dieu; tiếng Nga là Бог; tiếng Ả Rập là Allah. Tiếng Việt, Giê-hô-va được dịch là Thượng đế hay Thiên Chúa
(Chúa Trời). Chủ nghĩa hữu thần không chỉ là một khuynh hướng tín
ngưỡng tôn giáo mà còn lý luận thần học được một số nhà triết học và
thần học phát triển. Họ dùng nhiều lập luận lôgic để chứng minh sự tồn
tại và vai trò sáng tạo của Thiên Chúa.
Chủ nghĩa hữu thần chứng minh nguồn gốc và bản chất tính huyền diệu của thế giới bằng Lập luận từ sự thiết kế (Argument from Design) hay Lập luận mục đích luận (Teleological Argument).
Toàn bộ tính phức tạp, huyền diệu của thế giới và con người được quy về
trí tuệ thông minh của Thiên Chúa; ngài thiết kế và điều khiển tất cả.
Từ sự quan sát thấy tất cả những đồ vật phức tạp đều có người thiết kế
ra, các nhà lý luận thần học đi đến kết luận rằng vũ trụ và con người là
những kết cấu cực kỳ phức tạp và tinh vi nên phải do một đầu óc cực kỳ
thông mình thiết kế ra – đó là Thiên Chúa (Thượng đế).
Lập luận này nếu quy vê tam đoạn luận có dạng như sau:
Ta thử tham khảo lập luận sau đây trên một trang web tiếng Nga:
“Mỗi đồ vật đều có người làm ra; mỗi
cái nhà đều có người xây dựng; mỗi quyển sách đều có tác giả; mỗi con
người đều có cha mẹ. Xin hãy chỉ dùm tôi có vật nào tự nó được sinh ra
không? Có cái nhà nào tự nó được xây dựng mà không có kiến trúc sư và
những người thợ xây? Có quyển sách nào tự nó được viết ra mà không có
tác giả?
Như vậy, không có một sự vật có kết
cấu phức tạp nào mà không có người sáng lập ra. Do đó, vũ trụ, một kết
cấu vô cùng phức tạp phải có người sáng lập nên – đó là Thượng đế.”
Tất nhiên, ai cũng thấy được khiếm
khuyết trong lập luận này là: từ nguồn gốc những đồ vật trong xã hội suy
diễn ra cho tất cả sự vật, hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ là một suy
luận không hợp lôgic. Đồ vật trong xã hội là do con người thiết kế ra
với những mục đích nhất định, từ đó không thể suy ra sự vật, hiện tượng
trong vũ trụ là do Thượng đế thiết kế ra theo một mục đích nào đó.
3. Cách tiếp cận của phiếm thần luận
Phiếm thần luận (Pantheism) là khuynh hướng triết học đồng nhất Thượng đế với toàn bộ giới tự nhiên. Thuật ngữ “phiếm thần luận” xuất phát từ tiếng Hy Lạp Pan (tất cả) và theos (thần, Thượng đế) có nghĩa là tất cả vũ trụ
(toàn bộ giới tự nhiên) là Thượng đế. Điều này có nghĩa là không có một
vị Thượng đế nào khác như là một lực lượng tinh thần tối cao đứng trên
giới tự nhiên như quan niệm hữu thần luận, vì giới tự nhiên chính là
Thượng đế rồi.
Như vậy tất cả những gì huyền bí, mầu
nhiệm của thế giới đều là đặc tính của giới tự nhiên, của vị Thượng đế
này. Không có một vị Thượng đế nào khác thiết kế, sáng tạo ra vũ trụ,
đặt ra mục đích cho vũ trụ.
Đại biểu cho cách tiếp cận này có các
nhà triết học và thiên văn học Ý Giordano Bruno (1548-1600), nhà triết
học Hà Lan Baruch Spinoza (1632-1677)… Albert Einstein đôi khi cũng tán
đồng quan niệm như vậy. Khi được hỏi: “Ông có tin Thượng đế không?”, Einstein trả lời: “Tôi
tin ở Thượng đế của Spinoza, ngài mặc khải chính mình thông qua sự hài
hòa có trật tự của những gì đang tồn tại, chứ không phải vị Thượng đế có
liên quan đến số phận và hành động của con người.”
Như vậy, theo Phiếm thần luận, giới tự nhiên vốn có những đặc tính huyền diệu, bí ẩn
mà nhà khoa học phải nghiên cứu để tìm cách giải thích nó, do đó không
cần phải tìm đến một vị Thượng đế khác như một tinh thần tối cao đứng
trên giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên.
4. Cách tiếp cận của vô thần luận
Thuật ngữ vô thần luận (hay chủ nghĩa vô thần) (atheism) được cấu tạo từ tiếp đầu ngữ a (không) và từ Hy Lạp theos ( thần) là khái niệm dùng để chỉ một khuynh hướng tư tưởng thể hiện ở sự không tin hay phủ nhận sự tồn tại của thần thánh.
Chủ nghĩa vô thần không chỉ thể hiện ở sự không tin mà còn đưa ra những
lập luận nhất định để chứng minh cho lập trường của mình, bác bỏ các
lập luận thần học về sự tồn tại của Thượng đế, về nguyên nhân đầu tiên,
về mục đích luận và sự thiết kế, v.v..
Trong bài giảng “Tại sao tôi không phải là tín đồ Kitô giáo” (Why I am not a Christian), Bertrand Russell, nhà triết học nổi tiếng người Anh, người được giải thưởng Nobel năm 1950 đã phân tích và bác bỏ Lập luận từ sự thiết kế và mục đích luận
của thần học. Theo ông, người ta tin rằng Thượng đế là cái đẩy đầu tiên
làm cho vũ trụ vận động, vì đây là cách giải thích đơn giản và thuận
lợi tránh được sự phức tạp khi phải dùng quy luật vạn vật hấp dẫn. Cũng
theo Russel, giải thích những đặc diểm của sinh vật bằng sự thiết kế của
Thượng đế là đơn giản hơn thuyết tiến hóa của Darwin với sự giải thích
những đặc điểm của một giống loài sinh vật là kết quả của tính thích
nghi của sinh vật với môi trường, do sự tác động của quy luật chọn lọc
tự nhiên. Russell cũng chỉ ra mâu thuẫn trong lập luận từ sự thiết kế,
nếu như tất cả đều do một đầu óc vạn năng và thông minh thiết kế ra thì
điều đó liệu có giải thích được vô số những khiếm khuyết trong lịch sử
nhân loại, như tổ chức KKK ở Mỹ, chiến tranh phát xit, v.v..
Trong triết học Marxist, tất cả các đặc
điểm vốn có của thế giới (tự nhiên, xã hội, con người) bao gồm mối liên
hệ của sự vật, hiện tượng, tính quy luật của sự vận động, phát triển
được giải thích bằng khái niệm “biện chứng của tự nhiên”.
Theo quan điểm duy tâm, vật chất có đặc
tính trơ, ì, chỉ có tinh thần mới năng động, do đó phải giải thích tính
năng động của thế giới bằng tinh thần chứ không phải bằng bản thân vật
chất. Trái lại, theo chủ nghĩa duy vật mácxít, tất cả sự vật vật chất,
cũng như các mặt, các bộ phận của mỗi sự vật đều nằm trong những hệ
thống, cấu trúc phức tạp, trong đó mỗi mặt, mỗi bộ phận đều bị quy định
bởi những mặt, bộ phận còn lại; tất cả đều vận động, phát triển theo
những quy luật vốn có của vật chất, không do ý thức. Vận động là phương
thức tồn tại của vật chất.
Thí dụ, một nguyên tử đã là một cấu trúc
phức tạp bao gồm mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân. Vật thể vô cơ
không phải là một đống lộn xộn các phân tử mà là một tập hợp các phân tử
được cấu trúc theo một quy luật nhất định. Khi quan sát một “hoa tuyết”
chúng ta không thể không kinh ngạc và tự hỏi ai đã sắp xếp các phân tử
hơi nước lại thành một đóa hoa đẹp như vậy. Chúng ta lại càng ngạc nhiên
khi đối mặt với sự “mầu nhiệm” của cơ thể sinh vật và con người.
Cách tiếp cận duy vật, vô thần về thế
giới không chỉ khác với cách tiếp cận hữu thần luận mà còn phân biệt với
cách tiếp cận phiếm thần luận. Phiếm thần luận tuy có tính duy vật
nhưng lại quan niệm thế giới vật chất, giới tự nhiên là Thượng đế”, là
một vị thần. Trái lại, theo cách tiếp cận vô thần luận, tất cả những
điều huyền diệu, bí ẩn của thế giới và con người đều là đặc tính vốn có
của tự nhiên, là “biện chứng của tự nhiên” chứ không có tính thần thánh
gì cả.
PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG (ĐH ĐÀ NẴNG)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét