Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014
Siêu hình học: Từ lịch sử đến hiện tại
21:08
Hoàng Phong Nhã
No comments
Vấn đề siêu hình học, quan niệm vế siêu hình
học luôn là một vấn đề trọng tâm và nan giải nhất của triết học, vì nó
có liên quan mật thiết đến dự lý giải về triết học, về động thái của đối
tượng triết học và về sứ mệnh của triết học trong văn hoá.
Siêu hình học (tiếng Anh: Metaphysics
bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp: μετά (meta) = "sau", φυσικά (phisiká) = "lý
thuyết vật chất; hay Vật lý". Do đó, từ này có nghĩa là "Sau Vật lý").
Lưu ý, từ "Vật lý" ở đây ám chỉ những công trình nghiên cứu vật chất của
Aristotle trong thời cổ đại) là một nhánh triết học quan tâm đến việc
giải thích bản chất của thế giới. Đây là một môn học về sự tồn tại hoặc
sự thật. Nó quan tâm đến các câu hỏi như: Bản chất của sự thật là gì?
Đâu là vị trí đầu tiên của con người trong vũ trụ? Màu sắc là chủ quan
hay khách quan? Liệu thế giới có xuất hiện bên ngoài trí óc của chúng ta
hay không? Bản chất của vật thể, sự kiện, nơi chốn là gì?
1. “Siêu hình học” là “triết học thứ nhất” của Aristotle.
Bản thân Aristotle chưa sử dụng thuật ngữ “siêu hình
học”. Song, nếu căn cứ vào những tác phẩm của ông tập hợp lại dười tên
gọi “siêu hình học”, thì có thể khẳng định rằng, trong quan niệm của
Aristotle, siêu hình học là học thuyết về những nguyên tắc và các bản
nguyên tối cao, siêu kinh nghiệm của tồn tại, của nhận thức, của văn hoá
và vủa con người.
Như đã rõ, Andronicus (thế kỷ I trước CN.) đã đưa ra
thuật ngữ “siêu hình học” khi hệ thống hoá các tác phẩm của Aristotle.
Ông xếp vào “siêu hình học” các tác phẩm mà Aristotle đề cập tới “tồn
tại như là cái thực tồn”, tới”các hình thức thư nhật của cái thực tồn”.
Toàn bộ di sản lý luận của Aristotle được phân ra thành ba bộ phận là:
1) Vật lý học - nghiên cứu giới tự nhiên, 2) triết học - nghiên cứu cái
thực tồn và sự tồn tại của cái thực tồn, 3)đạo đức học - nghiên cứu cái
do con người tạo ra, cái có quan hệ cới lối sống, lối ứng xử của con
người (etos).
Như vậy, “siêu hình học” (triết học thứ nhất” của
Aristotle nghiên cứu cái thực tồn và sự tồn tại của cái thực tồn, các
bản nguyên và những nguyên tắc của mọi cái thực tồn; các bản nguyên này
cũng chính là mục đính nhận thức và nguồn gốc khoái cảm của con người.
Về thực chất, siêu hình học cổ đại cùng với việc tìm tòi những nguyên
tắc hay các bản nguyên siêu hình học nói chung.
2. Siêu hình học trung cổ.
Trong triết học trung cổ, siêu hình học thể hiện là
hình thức tối cao của nhận thức lý tính về tồn tại, về sự phục tùng tri
thức siêu lý tính được đem lại trong mặc khải. Thomas Aquinas đã luận
chứng cho sự đồng nhất giữa “triết học thứ nhất”, siêu học thứ nhất là
sự nhận thức nguyên nhân tối cao (Chúa, Đấng Sáng thế với tư cách nguyên
nhân thứ nhất của vạn vật), còn siêu hình học thì khảo cứu cái thực tồn
và những gì có quan hệ với nó. Triết học Aristotle được Thomas Aquinas
lĩnh hội theo chiều hưỡng dẫn tới sự xuất hiện hệ tín điều của cả niềm
tin lẫn của triết học thứ nhất. Triết học này (siêu hình học Aristotle),
theo ông, khi vạch ra mối liên hệ đặc thù giữa “triết học thứ nhất” với
thần học đã định hướng thế giới quan trung cổ với ý niệm về Chúa như
một Đấng Sáng thế, với sự nhận thức về Chúa như là nguyên nhân tối cao
và với những luận chứng cho sự tồn tại của Chúa. Triết học thứ nhất của
Aristotle khi đặt ra vấn đề bản chất của cái thực tồn và cái thực tồn
tổng thể với tư cách là cái tối cao và cái tối hậu (Thượng đế) đã đánh
đống niềm tin Thiên Chúa giáo với chính nội dung trong học thuyết triết
học của ông. Từ đó, người ta đã biến cái là vấn đề ở Aristotle thành
chân lý hiển nhiên và qua đó, đồng nhất “triết học thứ nhất” của ông với
siêu hình học và thần học. Tuy nhiên, nói một cách chính xác hơn, thần
học trung cổ không gắn liền với vấn đề xác định tồn tại nói chung như
của Aristotle, mà toàn bộ siêu hình học phải phục tùng thần học một cách
tuyệt đối.
3. Siêu hình học cận đại.
Tính đặc thù của siêu hình học cận đại được thể hiện ở
chỗ, toàn bộ hệ vấn đề triết học truyền thống được xem xét từ giác ngộ
của khoa học mới, còn khoa học tự nhiên, nhất là toán học, thì trở thành
cái biểu thị cho tính khoa học của triết học. Từ đó suy ra rằng, nếu
siêu hình học đặt ra các vấn đề về các bản nguyên đầu tiên, về cái tối
cao tối hậu thì loại tri thức này phải phù hợp với đối tượng được nghiên
cứu, tức là bản thân tri thức phải trở nên tuyệt đối xác thực. Triết
học cận đại đặt ra nhiệm vụ cải tiến toàn bộ hệ vấn đề truyền thống theo
tinh thần của tính chặt chẽ tương ứng và qua đó, nâng siêu hình học nên
trình độ khoa học tuyệt đối. Vấn đề tính xác thực tuyệt đối của tri
thức đã trở thành vấn đề cơ bản đối với triết học cận đại. Khi hướng tới
lý tưởng về tính chặt chẽ, siêu hình học cận đại đã biến thành siêu
hình học của nhận thức. (Sau này, Fichte coi khoa học luận là sự luận
chứng cho siêu hình học).
Song, cũng có các nhà tư tưởng, cụ thể là Pascan, đã
đặt ra vấn đề về giới hạn của tính khoa học, về “luận chứng của trái
tim”. Điều này đã tạo ra một viễn cảnh rộng lớn hơn cho siêu hình học
truyền thống - đem lại cho tư duy siêu hình khả năng nắm bắt cả tồn tại
lẫn con người có hiểu biết và đặt ra vấn đề về bản thân sự hiện diện của
con người trong thế giới - vấn đề về tồn tại người.
Ở thế kỷ XVIII, sự hình thành và tự xác định của các
khoa học cụ thể đã khiến cho siêu hình học lâm vào khủng hoảng, biến
thành công cụ hệ thống hoá giáo điều với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng
các hệ thống tri thức triết học phổ quát.
4. Siêu hình học cổ điển Đức.
Không đồng tính với siêu hình học giáo điều - thứ
siêu hình học lãng quên thực chất của tồn tại người, I. Kant đã cố gắng
nắm bắt chính xác các vấn đề nội tại của siêu hình học trước đó, để trên
cơ sở ấy, phân tích nó một cách có phê phán và luận chứng cho một
phương thức triết lý mới. Đóng góp của Kant là việc thừa nhận khả năng
và tính tất yếu nội tại của siêu hình học, khẳng định bản chất của nó
xuất phát từ việc nghiên cứu vấn đề tính hữu hạn của tồn tại người mà
theo đó, nhận thức về tồn tại và tính hữu hạn của “tồn tại hiện có”
(Dasein) hay của “sự hiện sinh đức thực” phải hướng vào thời gian như là
tính quy định cơ bản của sự hiện hữu nơi con người. Dĩ nhiên, việc luận
chứng cho sự hiện hữu nơi con người đòi hỏi phải lý giải bổn phận,
lương tâm và cái chết của con người về mặt hiện sinh. Với cách lập luận
như vậy, Kant coi siêu hình học là sự kết thúc văn hoá tư duy của con
người. Đối cới ông, đối tượng của siêu hình học (triết học), của toán
học và khoa học tự nhiên (trước đó là triết học tự nhiên) là hoàn toàn
khác nhau. Đây là một luận điểm quan trọng, vì nó tạo ra tiền đề cho
siêu hình học văn hoá ở thế kỷ XX.
Đồng thời, các tư tưởng khác của Kant, cụ thể là quan
điểm của ông về tính tích cực của chủ thể nhận thức, đã đem lại xung
lượng mới về triết học cổ điển đức sau đó. Tiếp thu quan điểm đó của
Kant, khi cố gắng xây dựng siêu hình học thực chứng, Fichte và Senling
đã gắn liền tư duy với thượng đế, lý tính với giới tự nhiên, siêu hình
học với khoa học, đã lý giải biện chứng của lý tính không phải như là
một sự bế tắc lý luận, mà như là động lực phát triển của nhận thức. Theo
đó, phép biện chứng đã được coi như là một thành tố cần thiết của tư
duy chân thực.
Đến Hegel, phép biện chứng đã trở thành phương pháp nhận thức mâu thuẫn và phát triển khái
niệm. Hegel được coi là người đầu tiên đối lập siêu hình học và phép
biện chứng như hai phương pháp khác nhau. Ông cho rằng nguồn gốc của
phương pháp siêu hình là ở việc giới hạn hoạt động nhận thức ở lĩnh vực
lý trí; còn phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức mâu thuẫn và
phát triển khái niệm. Mặc dù đối lập phương pháp siêu hình với phương
pháp biện chứng, song Hegel vẫn coi siêu hình học là “khoa học của các
khoa học” và coi triết học của ông là siêu hình học chân chính.
Nửa sau thế kỷ XIX được đặc trưng bởi
thái độ phủ định đối với siêu hình học truyền thống mà chủ nghĩa thực
chứng là biểu hiện rõ nét nhất. Không có ý định đi sâu vào vấn đề phủ
định siêu hình học, nên chúng tôi chỉ đề cập tới vấn đề này khi trình
bầy quan điểm hiện đại về siêu hình học.
5. Siêu hình học hiện đại.
Như đã nói, siêu hình học thường được
quan niệm là học thuyết về các bản chất siêu tình cảm, mà theo đó, thế
gới không chỉ quy về những gì do các giác quan đem lại, tức là thế giới
không thể nhận thức được bằng cảm tính, mà chỉ có thể nhận thức được
bằng lý tính, tư duy, trực giác trí tuệ. Cái gì ẩn náu ở đằng sau cái vẻ bề ngoài của sự vật?
- đó là vấn đề cơ bản của siêu hình học. Siêu hình học hiện đại khẳng
định con người có quyền đưa ra các giả thuyết, cái hư cấu nhằm lý giải
được bằng con đường khái quát các dữ liệu kinh nghiệm và các bản chất
siêu hình học, về nguyên tắc, là không thể nắm bắt được bằng trực giác
cảm tính, song chúng lại cho phép giải thích dữ liệu trực giác theo một
cách nhất định. Chẳng hạn, A. Schopenhauer và A. Soloviev coi tình yêu
là một bản chất siêu hình quan trọng động lực của vạn vật.
Tiếp thu quan điểm của Hegel, hàng
loạt các nhà triết học đã loại bỏ quan niệm truyền thống về siêu hình
học, đối lập nó như một phương pháp tư duy với phép biện chứng - phương
pháp lấy việc phủ định các quá trình biến đổi và phát triển trong
thế giới làm nguyên tắc. Cách tiếp cận này đóng một vai trò quan trọng
trong việc khác phục tư duy cơ giới, máy móc, phiến diện, trừu tượng.
Song toàn bộ vấn đề là ở chỗ siêu hình học (hiểu theo nghĩa truyền
thống) không trực tiếp đề cập tới bất kỳ vấn đề nào của thế giới hữu
hình. Nó cho rằng, thế giới các bản chất siêu hình là bất động không
phải theo nghĩa tuyệt đối, mà chỉ trong quan hệ với các sự vật biến đổi
vĩnh viễn và vô cùng đa dạng của thế giới được lĩnh hội bằng cảm
tính.Không cần phải thuyết phục ai đó rằng “tất cả đều biến đổi”! Song,
việc phát hiện ra một cái tương đối ổn định, bất biến trong thế giới
biến đổi vô hạn, phân chia nó thành vô số bộ phận - đó là một nhiệm vụ
không đơn giản chút nào và siêu hình học phải có sứ mệnh giải quyết vấn
đề đó. Cuộc sống của con người, hoạt động thực tiễn của con người sẽ là
cái không thể hiểu được, nếu trong thế giới không có gì là tuyệt đối, là
vô điều kiện, là đáng tin cậy, nếu trong thế giới mà mọi thứ đều liên
tục biến đổi và phân chia ra thành vô số bộ phận. Nhiệm vụ của siêu hình
học là phải trả lời cậu hỏi “Tại sao thế giới lại diễn ra như vậy”?.
Với tư cách là lĩnh vực biểu thị sự khao khát của con người trong quá
trình tìm hiểu thực chất của vấn đề, siêu hình học không thoả mãn với sự
lý giải về mặt chức năng vốn là cái đặc trưng của khoa học tự nhiên.
Theo nó, sự lý giải về mặt chức năng chỉ là sự lý giải nhằm tìm ra sự
phụ thuộc của hiên tượng nghiên cứu vào hiện tượng khác và xác định tính
chất của sự phụ thuộc ấy. Sự lý giải về mặt chức năng chỉ trả lời cho
câu hỏi “Thế giới biến đổi như thế nào”?, Chứ không trả lời được câu hỏi
“Tại sao thế giới lại biến đổi như vậy”?.Sự lý giải thế giới về mặt
chức năng có thể cho thấy “lối ứng xử” của các khách thể, tính toán được
các tham số cần tìm theo một công thức toán học cụ thể. Chẳng hạn, định
luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn cho thấy hai vật hút nhau với một lực
tỷ lệ thuận với tích khối lượng của chúng và tỷ lệ nghịch với bình
phương khoảng cách giữa chúng, nhưng lại không đặt ra vấn đề tại sao các
vật nói chung lại hút nhau và lực hấp dẫn xuất hiện từ đâu, bản chất
của nó là gì, v.v.. Sự chiếm ưu thế của kiểu lý giải thế giới về mặt
chức năng trong khoa học tự nhiên cho phép khoa học này trở thành tri
thức mang tính thao tác và mở ra triển vọng áp dụng nó trong thực tiễn.
Song, trong hàng loạt trường hợp, khoa học tự nhiên buộc phải giả định
các bản chất có tính chất siêu hình. Điều này diễn ra khi nó có tham
vọng xây dựng bức tranh thế giới của riêng mình dựa trên các dữ liệu
khoa học.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự
nhiên trong thế kỷ XX đã dẫn đến hy vọng rằng, khoa học có thể tạo ra
một bức tranh thế giời mà hoàn toàn không cần đến siêu hình học. Điều
này dẫn đến ảo tưởng rằng, tính khoa học chặt chẽ và tính hoàn hảo sẽ
chiếm ưu thế trong sự lĩnh hội thế giới của con người, còn yếu tố bất
định đặc trưng cho siêu hình học sẽ hoàn toàn bị loại bỏ. Triết học thực
chứng là minh chứng điển hình cho hy vọng về sự thắng lợi hoàn toàn của
khoa học tự nhiên đối với siêu hình học trong việc xây dựng bức tranh
khoa học về thế giới. O. Conte cho rằng, nhân loại đã bước vào một thời
đại (thực chứng) mà ở đó, không có sự thống trị của tri thức khoa
học thực chứng. Sau O. Conte, B. Rassen cho rằng, các vấn đề quan trọng
nhất của siêu hình học, như các vấn đề về sự tồn tại của Chúa, sự bất
tử và lẽ sống của con người, mục đích của lịch sử, bản chất của thế
giới, v.v.., sẽ được giải quyết triệt để bằng cách hoàn thiện bộ máy
logic học hình thức của khoa học(1).
Giải pháp thoả đáng cho vấn đề quan
hệ giữa khoa học tự nhiên và siêu hình học, theo chúng tôi, trước hết
được quy định bởi các đặc điểm của khoa học hậu cổ điển. Khoa học hậu cổ
điển cho thấy rằng, khoa học tự nhiên tự nó không có khả năng đưa ra
một bức tranh có kết cấu chắt chẽ và không mâu thuẫn về thế giới.Tính có
chủ thể của tri thức khoa học tự nhiên trong nhiều trường hợp không cho
phép nói về bức tranh thế giới mà ở đó, không có sự phụ thuộc vào con
người. Thế giới mà khoa học tự nhiên phác hoạ với giả định “nếu không có
con người“ - đó chẳng qua chỉ là thế giới ước lệ, mang tính giả thuyết.
Thế giới này luôn biến đổi và cần được xem xét lại một cách triệt để
mỗi khi có một chuyển biến mới trong quá trình phát triển của nhận thức
khoa học. Thử nhiệm hợp nhất mọi thành tựu khoa học tự nhiên luôn bị phá
sản như đã từng xẩy ra với thử nghiệm xây dựng thuyết trường chung của
A. Einstein, vì nó luôn cần phải được xem xét lại trước khi hoàn tất, vì
quá trình nhận thức khoa học luôn biến đổi và khó có thể tiên đoán
trước kết quả. Một khi những thử nghiệm như vậy vẫn cứ được tiến hành
thì nhất định phải có sự tham gia của siêu hình học, vì siêu hình
học cho phép sử dụng các bản chất không quan sát được một cách trực
tiếp và không thể kiểm tra được bằng phương pháp khoa học tự nhiên. Trên
thực tế, hy vọng vào bức tranh thế giới được xây dựng chỉ với những dữ
liệu khoa học tự nhiên đòi hỏi phải loại bỏ hoàn toàn siêu hình học. Hy
vọng mọi thứ đều hoàn toàn có thể lý giải được bằng khoa học tự nhiên,
về thực chất, đã tước mất của con người những giá trị, có thể nói, vuợt
ra khỏi phạm vi khoa học. Những giá trị, như cái thiện, lòng từ bi, tình
yêu, cái đẹp, lòng trắc ẩn, v.v.., không mâu thuẫn với khoa học, nhưng
cũng không hoàn toàn nằm trong phạm vi của khoa học. Chúng có bản chất
siêu hình, vì chúng không thể tách ra được từ các dữ liệu của khoa học
tự nhiên, nhưng tầm quan trọng của chúng thậm chí còn hơn cả tầm quan
trọng của tồn tại người đối với các lý thuyết khoa học.
Khoa học tự nhiên tự nó không thể xây dựng được một bức tranh tổng thể
về thế giới. Chính vì vậy mà nó luôn sa vào thứ siêu hình học tầm
thường. Và cũng do vậy mà việc loại bỏ các tham vọng siêu hình học đã
trở thành một đặc trưng của nhận thức khoa học hiện đại. Phương pháp
luận của nhận thức khoa học đã được phát triển dưới những đòi hỏi phải
phân định dành mặch giữa khoa học tự nhiên và siêu hình học trong suốt
thế kỷ XX. Sự tự phân định của khoa học tự nhiên khỏi siêu hình học đòi
hỏi phải thừa nhận rằng, nó không thể đáp ứng được mọi nhu cầu tinh thần
của con người, mà chỉ đáp ứng được một bộ phận nhu cầu ấy. Điều này dĩ
nhiên không hạ thấp ý nghĩa của nhận thức khoa học.Nó cũng không hạ thấp
giá trị chung của các chân lý khoa học được luận chứng trên cơ sở của
những phương pháp khoa học chặt chẽ và hợp lý. Đồng thời, cũng cần phải
thừa nhận rằng, các khoa học tự nhiên và toàn bộ khoa học không thể đem
lại một bức tranh chỉnh thể về thế giới, mà chỉ đem lại một mảng hiện
thực được tái hiện nhờ các phương pháp nhận thức tương ứng và phù hợp
với các mục đích nhận thức tương ứng. Các đặc trưng của mảng hiện thực
ấy luôn cần được xem xét lại và chuẩn xác hoá trong quá trình phát triển
của tri thức khoa học.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận
rằng, khoa học không thể thay thế hay có thể loại bỏ được siêu hình học.
Siêu hình học, về nguyên tắc, là không thể loại ra khỏi tồn tại người.
Song, đến lượt mình, siêu hình học không thể không tính đến các thành
tựu của khoa học, nhất là của khoa học tự nhiên hiện đại. Nó phải
đưa ra câu trả lời cho các vấn đề, như định hướng lẽ sống của con
người, khát vọng của con người hướng tới cái vĩnh cửu và khắc phục tính
hữu hạn của cuộc sống cá nhân. Cái chết không làm cho con người vừa
lòng, bởi nó không đưa lại cho con người một cái nhìn triệt để, sâu sắc
về mặt bản thể luận của cuộc sống con người”(2). Cho dù khoa học có
khẳng định tính tất yếu của cái chết thì con người vẫn không thể coi nó
giống như một sự kiện không có quan hệ gì với họ. Trong con người luôn
có nhu cầu siêu việt hoá - vượt ra khỏi giới hạn của tồn tại hiện có. Và
chỉ có siêu hình học mới đáp ứng được nhu cầu này của con người, đáp
ứng bằng cách tìm tòi các nền tảng văn hoá của tồn tại con người. Văn
hoá hoá tồn tại người được coi là con đường siêu việt hoá của con người,
và do vậy, siêu hình học biến thành siêu hình học văn hoá. Toàn bộ nhân
học hiện đại, về thực chất, là cái đóng vai trò siêu hình học hiện đại.
S.T
0 nhận xét:
Đăng nhận xét