Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014
Sự hình thành và phát triển học thuyết âm dương ngũ hành
21:13
Hoàng Phong Nhã
No comments
Học thuyết âm dương ngũ hành
không những được nhiều trường phái triết học tìm hiểu lý giải, khai thác
mà còn được nhiều ngành khoa học khác quan tầm vận dụng. Có thể nói, ít
có học thuyết triết học nào lại thâm nhập vào nhiều lĩnh vực của tri
thức và được vận dụng để lý giải nhiều vấn đề của tự nhiên, xã hội như
học thuyết này.
Việc
sử dụng phạm trù âm dương ngũ hành đánh dấu bước phát triển đầu tiên
của tư duy khoa học phương Đông nhằm đưa con người thoát khỏi sự khống
chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống.
Chính vì thế, sự tìm hiểu học thuyết âm dương ngũ hành là một việc cần
thiết để lý giải những đặc trưng của triết học phương Đông.
Lý luận về âm dương được viết thành văn
lần đầu tiên xuất hiện trong sách "Quốc ngữ". Tài liệu này mô tả âm
dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong vũ trụ, một
dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có âm
tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động
lẫn nhau tạo nên tất cả vũ trụ. Sách "Quốc ngữ" nói rằng "khí của trời
đất thì không sai thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì dân sẽ loạn, dương mà bị
đè bên dưới không lên được, âm mà bị bức bách không bốc lên được thì có
động đất".
Lão Tử (khoảng thế kỷ V - VI trước CN)
cũng đề cập đến khái niệm âm dương. Ông nói: “Trong vạn vật, không có
vật nào mà không cõng âm và bồng dương”, ông không những chỉ tìm hiểu
quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà còn muốn khẳng định trong mỗi
sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là âm dương.
Học thuyết âm dương được thể hiện sâu
sắc nhất trong "Kinh Dịch". Tương truyền, Phục Hy (2852 trước CN) nhìn
thấy bức đồ bình trên lưng con long mã trên sông Hoàng Hà mà hiểu được
lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch thành nét. Đầu tiên vạch một
nét liền (-) tức "vạch lề" để làm phù hiệu cho khí dương và một nét đứt
(--) là vạch chẵn để làm phù hiệu cho khí âm. Hai vạch (-), (--) là hai
phù hiệu cổ xưa nhất của người Trung Quốc, nó bao trùm mọi nguyên lý của
vũ trụ, không vật gì không được tạo thành bởi âm dương, không vật gì
không được chuyển hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau. Các học giả từ
thời thượng cổ đã nhận thấy những quy luật vận động của tự nhiên bằng
trực quan, cảm tính của mình và ký thác những nhận thức vào hai vạch
(--) (-) và tạo nên sức sống cho hai vạch đó. Dịch quan niệm vũ trụ, vạn
vật luôn vận động và biến hóa không ngừng, do sự giao cảm của âm dương
mà ra, đồng thời coi âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng cùng tồn
tại trong một thể thống nhất trong mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô, từ
một sự vật cụ thể đến toàn thể vũ trụ.
Theo lý thuyết trong "Kinh Dịch" thì bản
nguyên của vũ trụ là thái cực, thái cực là nguyên nhân đầu tiên, là lý
của muôn vật: "Dịch có thái cực sinh ra hai nghi, hai nghi sinh ra bốn
tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ". Như vậy, tác giả của “Kinh Dịch" đã
quan niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động. Trong thái cực, thiếu
dương vận động đến thái dương thì trong lòng thái dương lại nảy sinh
thiếu âm, thiếu âm vận động đến thái âm thì trong lòng thái âm lại nảy
sinh thiếu dương. Cứ như thế, âm dương biến hoá liên tục, tạo thành vòng
biến hóa không bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, các nhà làm Dịch mới gọi tác
phẩm của mình là "Kinh Dịch”. Ở "Kinh Dịch", âm dương được quan nệm là
những mặt, những hiện tượng đối lập. Như trong tự nhiên: sáng - tối,
trời - đất, đông - tây, trong xã hội: quân tử - tiểu nhân, chồng - vợ,
vua - tôi... Qua các hiện tượng tự nhiên, xã hội, các tác giả trong
"Kinh Dịch" đã bước đầu phát hiện được những mặt đối lập tồn tại trong
các hiện tượng đó và khẳng định vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó:
"vật vật hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào cũng có một thái cực, thái
cực là ầm dương). Nhìn chung, toàn bộ “Kinh dịch” đều lấy âm dương làm
nền tảng cho học thuyết của mình.
Vấn đề âm dương trong trời đất, trong
vạn vật liên quan tới sự sống con người được bàn nhiều nhất trong nội
dung trao đổi y học, y thuật giữa Hoàng đế và Kỳ Bá qua tác phẩm "Hoàng
đế Nội kinh". Tác phẩm này lấy âm dương để xem xét nguồn gốc của các tật
bệnh. "Âm dương, đó là cái đạo của trời đất, kỷ cương của vạn vật, cha
mẹ của sự biến hóa, gốc ngọn của sự sinh sát, phủ tạng của thần minh,
trị bệnh phải cần ở gốc, cho nên tích luỹ dương làm trời, tích lũy âm
làm đất, âm tĩnh đương động, dương sinh âm trưởng, dương sát âm tàng,
dương hóa khí, âm tàng hình".
Tác phẩm này còn bàn đến tính phổ biến
của khái niệm âm dương. Theo tác phẩm thì trời thuộc dương, đất thuộc
âm, mặt trời thuộc dương, mặt trăng thuộc âm. Âm dương là khái niệm phổ
biến của trời đất. Mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều có thể lấy âm
dương làm đại biểu. Thông qua quy luật biến đổi âm dương trong tự nhiên
mà cố thể suy diễn, phân tích luật âm dương trong cơ thể con người.
Từ những quan niệm trên về âm dương,
người xưa đã khái quát thành quy luật để khẳng định tính phổ biến của
học thuyết này: Trước hết, âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng
lại thống nhất với nhau, cùng tồn tại phổ biến trong các sự vật, hiện
tượng của giới tự nhiên. Âm dương đối lập, mâu thuẫn nhau trên nhiều
phương diện. Về tính chất: dương thì cứng, nóng, âm thì mềm, lạnh. Về
đường đi lối về: dương là thăng (đi lên), âm là giáng (đi xuống), "cái
này đi ra thì cái kia đi vào, cái này dịch sang bên trái, thì cái kia
dịch sang bên phải".
Âm dương còn đối lập nhau cả ở phương vị
nữa. Theo "Nội kinh", khí dương lấy phía Nam làm phương vị, lấy phía
Bắc làm nơi tàng thế. Khí âm lấy phía Bắc làm phương vị, lấy phía Nam
làm nơi tiềm phục. Nếu suy rộng hơn nữa thì phàm những thuộc tính tương
đổi như hoạt động với trầm tĩnh, sáng sủa với đen tối, đông - tây, trong
xã hội : quân tử - tiểu nhân, hưng phấn với ức chế, vô hình với hữu
hình... chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự không một cái gì
không phải là quan hệ đối nhiên, xã hội, các tác giả trong "Kinh Dịch"
đã lập của âm dương. Do đó, âm dương tuy là bước đầu phát hiện được
những mặt đối lập khái niệm trừu tượng nhưng nó có sẵn cơ sở tồn tại
trong các hiện tượng đó và khẳng định vật chất, nó có thể bao quát và
phổ cập tất cả vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó: các thuộc tính
đối lập của mọi sự vật, âm "vật vật hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào
dương tuỳ đối lập, mâu thuẫn nhau, song cũng có một thái cực, thái cực
là âm dương), không tách biệt nhau mà xâm nhập vào nhau, không phải là
tuyệt đối mà là tương đối, không phải là đại biểu cố định cho một số sự
vật nào đó mà là đại biểu cho sự chuyển biến, đối lập của tất cả các sự
vật. Song âm dương không phải là hai mặt tách rời nhau và chỉ có đấu
tranh với nhau mà còn thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn
tại, "âm là cái dương vẫn tìm, mềm là cái dương vẫn lấn".
Trong vũ trụ, cái gì cũng thế, "cô dương
thì bất sinh, cô âm thì bất trường". Nếu chỉ một mình dương hay một
mình âm thì không thể sinh thành, biến hóa được. Nếu một mặt mất đi thì
mặt kia cũng mất theo, "dương cô thì âm tuyệt", âm dương phải lấy nhau
để làm tiền đề tồn tại cho mình. Ngay cả cái gọi là âm dương cũng chỉ có
ý nghĩa tương đối, vì trong dương bao giờ cũng có âm, trong âm bao giờ
cũng có dương. Khi dương phát triển đến thái dương thì trong lòng nó đã
xuất hiện thiếu dương rồi, khi âm phát triển đến thái âm thì trong lòng
nó đã xuất hiện thiếu âm rồi. Sở dĩ gọi là âm vì trong nó phần âm lấn
phần dương, sở dĩ gọi là dương vì trong nó phần dương lấn phần âm. Âm
dương bao giờ cũng nương tựa vào nhau. Sách Lão Tử viết: "phúc là chỗ
núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc”.
Bên cạnh quy luật âm dương đối lập,
thống nhất còn có quy luật tiêu trưởng và thăng bằng của âm dương nhằm
nói lên sự vận động không ngừng, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm
dương để duy trì tình trạng thăng bằng tương đối của sự vật. Nếu mặt này
phát triển thái quá sẽ làm cho mặt khác suy kém và ngược lại. Từ đó làm
cho hai mặt âm dương của sự vật biến động không ngừng. Sự thắng phục,
tiêu trưởng của âm dương theo quy luật "vật cùng tắc biến, vật cực tắc
phản". Sự vận động của hai mặt âm dương đến mức độ nào đó sẽ chuyển hóa
sang nhau gọi là "dương cực sinh âm, âm cực sinh dương". Sự tác động lẫn
nhau giữa âm đương luôn nảy sinh hiện tượng bên này kém, bên kia hơn,
bên này tiến, bên kia lùi. Đó chính là quá trình vãn động, biến hóa và
phát triển của sự vật, đồng thời cũng là quá trình đấu tranh tiêu trưởng
của âm dương.
Những quy luật cơ bản của âm dương nói
lên sự mâu thuẫn, thống nhất, vận động và phát triển của một dạng vật
chất, âm dương tương tác với nhau gây nên mọi sự biến hóa của vũ trụ.
Cốt lõi của sự tương tác đó là sự giao cảm âm dương. Điều kiện của sự
giao cảm đó là sự vật phải trung và "hòa" với nhau. Âm dương giao hòa
cảm ứng là vĩnh viễn, âm dương là hai mặt đối lập trong mọi sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, quy luật âm dương cũng là quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển không ngừng của mọi sự vật khách quan.
Nếu như sự vận động không ngừng của vũ
trụ đã hướng con người tới những nhận thức sơ khai trong việc cắt nghĩa
quá trình phát sinh của vũ trụ và hình thành thuyết âm dương, thì ý
tưởng tìm hiểu bàn thể thế giới, bản thể các hiện tượng trong vũ trụ đã
giúp cho họ hình thành thuyết ngũ hành. Thuyết ngũ hành có thể hiểu đó
là thuyết biểu thị quy luật vận động của thế giới của vũ trụ, nó cụ thể
hóa và bổ sung cho thuyết âm dương thêm hoàn bị.
Sự đề cập đầu tiên về ngũ hành được thấy
trong tác phẩm "Kinh thư" ở chương "Hồng phạm" qua lời "Cổ Tử cáo với
Vua Vũ nhà Chu". Trong Cửu trù "Hồng Phạm" thì ngũ hành về mặt tự nhiên
được hình thành bằng những tên của năm loại vật chất cụ thể (kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ) và kèm theo tính chất của các loại vật chất đó, năm loại
vật chất này không thể thiếu được đối với đời sống con người. Đứng về
mặt thiên thời, "Hồng phạm" cho rằng có cái gọi là ngữ "kỷ" (một là năm,
hai là tháng, ba là ngày, bốn là các vì sao, năm là lịch số). Về hiện
tượng xã hội và hiện tượng tinh thần của con người, "Hồng phạm" đề xuất
"ngũ sự" và "ngũ phúc". Ngũ sự như: một là tướng mạo, hai là lời nói, ba
là trông, bốn là nghe, năm là suy nghĩ. Ngũ phúc như: một là thọ, hai
là phúc, ba là thông minh, bốn là hiếu đức, năm là khảo trung mệnh. Qua
đó nhận thấy "Hồng phạm" dùng ngũ hành để liên hệ hiện tượng tự nhiên
với hiện tượng xã hội, nhằm thuyết minh thế giới là một chỉnh thể thống
nhất, có trật tự. Trong tư tưởng đó có chứa đựng nhân tố duy vật, khẳng
định ngũ hành là cơ sở của thế giới, tính chất của sự vật đều thể hiện
tính năng của năm loại vật chất: thủy, hỏa, kim, mộc, thổ. "Hồng phạm"
đã ảnh hưởng rất lớn đến triết học của thời đại phong bến sau này. Các
nhà duy vật và duy tâm từ những lập trường và giác độ khác nhau mà rút
ra từ "Hồng phạm" những tư tưởng phù hợp với mình. Chính "Hồng phạm" và
"Kinh dịch" đã tạo nên cái nền của vu trụ luận.
Trong thiên "Thập nhi kỉ" sách “Lã Thị
Xuân Thu" phần nói về mối quan hệ giữa ngũ hành với giới tự nhiên có rõ
nét hơn. "Nguyệt lệnh" dùng thuộc tính vốn có của năm loại vật chất và
tác dụng (tương sinh) lẫn nhau giữa chúng để thuyết minh cho sự biến hóa
của thời tiết bốn mùa. Sự thuyết minh này tuy có tính chất khiên cưỡng
nhưng là một quan điểm duy vật. Còn về mặt xã hội thì "Nguyệt lệnh" cũng
giống như "Hồng phạm", ý đồ chính trị đã được nâng lên đến mức thể chế
hành động của ông vua theo ngũ hành. Người ta lấy sự chặt chẽ của trật
tự ngũ hành và quan hệ sinh khắc của nó để làm mực thước cai trị xã hội.
Trâu Diễn là một lãnh tụ quan trọng của
các nhà ngũ hành thời Chiến quốc. Khi đưa thuyết ngũ hành vào lịch sử
ông đã dùng trật tự của ngũ hành để gán ghép cho trật tự của các triều
đại vua. Ý tưởng của ông đã thành một nếp khẳng định trong ý thức hệ của
giai cấp phong kiến, đến nỗi gây ra cuộc tranh luận về việc chọn tên
"hành" cho triều đại nhà Hán (một triều đại mà học thuyết âm dương ngũ
hành rất thịnh và được đem ứng dựng vào tất cả các công việc hàng ngày,
vào mọi mặt của đời sống xã hội). Lý luận của Trâu Diễn được các danh
gia đương thời hấp thụ và quán triệt vào các lĩnh vực của hình thái ý
thức xã hội.
Học thuyết ngũ hành của Đổng Trọng Thư
một nho si uyên bác đời Hán có nhiều điểm khác với tư tưởng của Cơ Tử vả
Trâu Diễn. Đi sáu vào hình thái của quy luật ngũ hành, Đổng Trọng Thư
cho rằng: trật tự của ngũ hành bất đầu từ mộc qua hỏa, thổ, kim thủy.
Khi phân tích quy luật sinh khắc của ngũ hành, ông đã dựa hẳn vào sự
diễn biến của khí hậu bốn mùa. Theo ông, sở dĩ có sự vận chuyển bốn mùa
là do khí âm, dương biến đổi.
Trong "Kinh Dịch", khi nói về ngũ hành,
các nhà toán học và dịch học đã lý giải nó trên hai hình Hà đồ và Lạc
thư. Theo "Kinh Dịch” thì trời lấy số 1 mà sinh thành thủ, đất lấy số 6
mà làm cho thành, đất lấy số 2 mà sinh hành hỏa, trời lấy số 7 mà làm
cho thành, trời lấy số 3 mà sinh hành mộc, đất lấy số 8 mà làm cho
thành, đất lấy số 4 mà sinh hành kim, trời lấy số 9 mà làm cho thành.
Quan điểm ngũ hành và sự ứng dụng của nó
đối với đời sống con người được bàn nhiều nhất trong tác phẩm "Hoàng đế
Nội kinh". Những lời bản trong bộ sách này đã khẳng định học thuyết ngũ
hành có vai trò hết sức quan trọng đối với y học cổ truyền Trung Quốc.
Mối quan hệ giữa các hành trong ngũ hành được thực hiện qua các quy luật của ngũ hành.
Ngũ hành tương sinh: sinh có nghĩa là
tương tác, nuôi dưỡng, giúp đỡ. Giữa các hành trong ngũ hành đều có quan
hệ nuôi dưỡng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát sinh và phát triển.
Đó gọi là ngũ hành tương sinh. Quan hệ tương sinh của ngũ hành là mộc
sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc.
Ngoài quy luật tương sinh còn có quy
luật tương khắc. "Khắc" có nghĩa là chế ước, ngăn trở, loại trừ. Thứ tự
của ngũ hành tương khắc là: mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa,
hoả khắc kim, kim khắc mộc.
Trong ngũ hành tương sinh đồng thời cũng
cổ ngũ hành tương khắc, trong tương khắc cũng ngụ có tương sinh. Đó là
quy luật chung về sự vận động, biến hóa của giới tự nhiên. Nếu chỉ có
tương sinh mà không có tương khắc thì không thể giữ gìn được thăng bằng,
có tương khắc mà không có tương sinh thì vạn vạt không thể có sự sinh
hóa. Vi vậy, tương sinh, tương khắc là hai điều kiện không thể thiểu
được để duy trì thăng bằng tương đối của hết thảy mọi sự vật.
Quy luật tương sinh tương khắc là chỉ
vào quan hệ của ngũ hành dưới trạng thái bình thường. Còn nếu giữa ngữ
hành với nhau mà sinh ra thiên thịnh hoặc thiên suy, không thể giữ gìn
được thăng bằng, cân đối mà xảy ra trạng thái trái thường thì gọi là
"tương thừa", "tương vũ".
Hai học thuyết âm dương ngũ hành được
hết hợp làm một từ rất sớm. Nhân vật nổi tiếng nhất trong việc kết hợp
hai học thuyết trên là Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý luận âm dương
ngũ hành "tương khắc, tương sinh" để giải thích mọi vật trong trời đất
và giữa nhân gian. Trâu Diễn là người đầu tiên vận dụng thuyết âm dương
ngũ hành vào giải thích các hiện tượng xã hội nói chung.
Cuối thời Chiến Quốc, đầu thời Tần Hán có hai xu hướng khác nhau bàn về sự kết hợp giữa thuyết âm dương và thuyết ngũ hành.
Hướng thứ nhất: Đổng Trọng Thư kết hợp
âm dương ngũ hành để giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội, con
người. Theo ông, giữa con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí.
Khi giải đáp về khởi nguồn, kết cấu của vũ trụ, ông đã sáng tạo ra một
vị thần có nhân cách đứng trên cả vũ trụ, có ý thức và đạo đức đó là
trời. Theo ông, trong vũ trụ con người là sự sáng tạo đặc biệt của trò
vượt lên vạn vật, tương hợp với trời, trời có bốn mùa, con người có tứ
chi. Từ thuyết "thiên nhân hợp nhất", ông đã dẫn dắt ra mệnh đề "thiên
nhân cảm ứng", cho rằng thiên tai là do trời cảnh cáo loài người. Ông
còn lợi dụng quan điểm định mệnh trong học thuyết âm dương ngũ hành để
nói rằng "dương thiên, âm ác". Tuy Đổng Trọng Thư đưa ra phạm trù "khí",
"âm dương", "ngũ hành" để giải thích quy luật biến hóa của thế giới,
song ông lại cho rằng những thử khí ấy bi ý chí của thượng đế chi phối.
Triết học của ông có màu sắc mục đích luận rõ nét. Bên cạnh đó ông còn
nói trời không đổi, đạo cũng không đổi để phủ nhận sự phát triển và biến
hóa của thế giới khách quan.
Hướng thứ hai: Tác phẩm "Hoàng Đế Nội
kinh" đã sử dụng triết học âm dương ngũ hành làm hệ thống lý luận của y
học. Tác phẩm này đã dùng học thuyết trên để giải thích mối quan hệ giữa
con người với trời đất: coi con người và hoàn cảnh là một khối thống
nhất, con người chẳng qua là cơ năng của trời và đất thu nhỏ lại, con
người không thể tách rời giới tụ nhiên mà sinh sống được, con người với
giới tự nhiên là tương ứng. Tự nhiên có âm dương ngũ hành thì con người
có "thủy hỏa" ngũ tạng. Nội kinh viết: "âm dương là quy luật của trời
đất tuy không thấy được nhưng chúng ta có thể hiểu được nó thông qua sự
biểu hiện của thủy hỏa khí huyết, trong đó hỏa khí thuộc dương, thủy
huyết thuộc âm". Tác phẩm này còn dùng các quy luật âm dương ngũ hành để
giải thích mối quan hệ giữa các phú tạng trong cơ thể. Tác phẩm đã vãn
dụng sự kết hợp giữa học thuyết âm dương với học thuyết ngũ hãnh để giải
thích các hiện tượng tự nhiên cũng như các biểu hiện trong cơ thể con
người và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đây là một quan điểm
hoàn chỉnh và là một điển hình của phép biện chứng thô sơ.
Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật,
hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với hai mặt đối lập thống
nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ cương
của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp
khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất. Khi đó nó phải
dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết âm
dương với học thuyết ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự
nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp
với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời. Muốn nhìn nhận con người
một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học thuyết âm
dương và ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể nói
lên được tính đối lập thống nhất, tính thiên lệch và cân bằng của các bộ
phận trong cơ thể con người, còn học thuyết ngũ hành nói lên mối quan
hệ phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người
và giữa con người với tự nhiên. Có thể khẳng định, trên cơ bản, âm dương
ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh, giữa âm dương và ngũ hành có mối quan
hệ không thể tách rời.
Âm dương ngũ hành là những phạm trù cơ
bản trong tư tưởng của người Trung Quốc cổ đại. Đó cũng là những khái
niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích sụ sinh thành, biến
hóa của vũ trụ. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương ngũ hành đã
phát triển đến một trình độ khá cao và trở thành phổ biến trong các lĩnh
vực khoa học tự nhiên. Song học thuyết âm dương ngũ hành cũng như các
học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại là thế giới quan của người Trung
Hoa ở vào một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ vãng, lúc đó lực lượng sản
xuất và khoa học còn ở trình độ thấp, cho nên không khỏi có những hạn
chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định Đặc biệt, sự phát
triển của nó chưa gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện
đại, nó còn mang dấu ấn của tính trực giác và tính kinh nghiệm. Song
học thuyết đó đã trang bị cho con người tư tưởng duy vật khá sâu sắc và
độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một số ngành khoa học cụ thể.
TRẦN THỊ HUYỀN (TẠP CHÍ TRIẾT HỌC)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét