Nguyễn
Huy Vũ
Nguyễn Minh Thọ
1. Quá trình hình thành và nắm giữ quyền lực
của đảng Nhân dân Hành động (PAP) ở Singapore
Khi
thành lập vào năm 1954, đảng Nhân dân Hành động (People Action Party,
viết tắt là PAP[1])
là một liên minh chính trị giữa các lãnh đạo công đoàn cánh tả và một
nhóm chuyên gia được đào tạo từ nền giáo dục Anh (British-educated
professionals). Liên minh này hoạt động dưới ngọn cờ chung (common
banner) là chống thực dân.
Nếu
như động lực chống thực dân Anh của các lãnh đạo cánh tả là rõ ràng và
dễ hiểu thì động cơ đó có vẻ ngược lại đối với nhóm chuyên gia. Nhóm
chuyên gia này có thể hưởng được những đặc quyền, đặc lợi mà chính quyền
thuộc địa dành cho giai cấp bản xứ. Dựa theo khuôn mẫu Gramsci cổ
điển (classic Gramscian fashion)[2]
– trong việc chỉ ra các kinh nghiệm mà các nhóm hoạt động chính trị khác
đã thành công trong việc chuyển đổi đường hướng và cách thức hoạt động
chính trị
̶
nhóm chuyên gia này đã chủ động rời bỏ tầng lớp và giai cấp thống
trị để tham gia vào khuynh hướng xã hội chung của thời đại đang được
nhiều người ủng hộ. Thay vì tiếp tục hưởng thụ những đặc quyền và đặc
lợi có được nhờ việc thừa hưởng nền giáo dục của Anh và là con cưng của
chính quyền, họ đã thấy được những nguyện vọng sâu xa của các tầng lớp
nhân dân bên dưới: chống thực dân.
Việc
tập hợp lại với một khẩu hiệu như thế đã trở nên một mối quan tâm
chính và một đồng thuận của xã hội, về mặt cảm tính, đã biến họ thành
một tổ thức chính trị dành được vai trò lãnh đạo về ý thức hệ
(ideological leadership). Tuy nhiên, để thu hút sự ủng hộ rộng rãi của
quần chúng, nhóm chuyên gia phải hình thành một liên minh với các nghiệp
đoàn và các tổ chức chính trị, xã hội cánh tả khác. Sự ủng hộ và quan
tâm từ giới công nhân cũng như tầng lớp dân chúng chịu ảnh hưởng nền
giáo dục Trung Hoa là rất quan trọng.
Ngược lại, đối mặt với tình trạng bị đàn áp và sắp bị chính quyền thuộc
địa Anh đặt ra ngoài vòng pháp luật vì các hoạt động cổ vũ cho chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, các tổ chức cánh tả Singapore cũng hoan
nghênh việc liên minh với nhóm chuyên gia Anh học, với hy vọng là nhóm
chuyên gia này sẽ đóng vai trò một tấm bình phong đứng đắn, ôn hòa, có thể
được đa số chấp nhận cho tổ chức PAP và các hoạt động chính trị của họ.
Do đó, liên minh này là một cuộc hôn phối vì lợi ích, mà mỗi bên có
những các mục đích riêng của mình.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1959 để bầu một chính quyền bản xứ có
quyền tự trị (có nhiều quyền, dù ngoại giao và quốc phòng vẫn nằm
trong
tay thực dân Anh), PAP đã tranh cử tất cả các ghế, và dành được 43
trên 51 ghế. Người đứng đầu nhóm chuyên gia, Lý Quang Diệu, được cử
làm thủ tướng, sau khi các thành viên cánh tả của PAP bị bắt vì lý do
chính trị trước đó, được thả ra.
Tuy
nhiên, các bất đồng sớm nổ ra giữa hai nhóm. Nhóm cánh tả đe dọa sẽ
chuyển sự ủng hộ từ Lý Quang Diệu sang David Marshall (lãnh tụ đảng đối
lập) nếu Lý Quang Diệu không có những cải cách đáng kể về tình
trạng đàn áp (bao gồm: thiếu quyền tự do công dân, việc tiếp tục câu lưu
và bắt giữ các nhân vật chính trị dưới luật Nội an của Hội đồng Nội an
(Internal Security Council)), hạn chế quyền công dân của các nhân vật
thuộc cánh tả, hạn chế các phong trào liên kết của các công đoàn thương
mại có xu hướng xây dựng các cơ sở chính trị, và cuối cùng là sự mất dân
chủ ngày càng lớn ngay trong đảng PAP.[3]
Các bất đồng trong PAP không giải quyết được, dẫn đến sự ly
khai, và sự thành lập của đảng Barisan Sosialis bởi các lãnh đạo nghiệp
đoàn cánh tả và các thành viên ly khai (hay bị đuổi) khác của PAP.
Lý Quang Diệu vẫn tiếp tục nắm quyền với đảng PAP còn lại.
Sau
cuộc trưng cầu dân ý để sát nhập Singapore vào liên bang Malaysia vào
năm 1962, PAP đã tăng cường vị trí độc tôn quyền lực bằng cách đàn áp
các đảng đối lập. Tháng 2/1963, một chiến dịch mang tên Operation Cold
Store bắt giữ hơn 100 nhân vật hoạt động chính trị cánh tả quan trọng
hoặc nổi tiếng. Chiến dịch này được thực hiện bởi Hội đồng Nội an mà
Malaysia nắm giữ một lá phiếu quyết định trong hội đồng gồm 7 người (có
3 từ chính phủ Singapore và 3 là các nhân viên người Anh). Do đó, mặc dù
Lý Quang Diệu có mặt trong buổi họp quyết định bắt giữ, ông đã
tránh được trách nhiệm của mình trong biến cố này.
Ngay
sau vụ bắt giữ và đàn áp, PAP tổ chức một cuộc bầu cử đột xuất. Kết
quả là Barisan được 33,3% phiếu bầu và dành được 13 ghế, PAP dành được
46,9% phiều bầu và được 37 ghế. Khi quốc hội mới ra tuyên thệ, 3 dân
biểu của Barisan đã bị bắt và 2 phải bỏ trốn ra nước ngoài. Tổng thư ký đảng
Barisan đã tẩy chay vị trí đại biểu quốc hội của mình. Sau đó, việc 7
dân biểu Barisan còn lại lần lượt từ chức đã cho phép PAP nắm giữ thêm
(hoàn toàn) ghế trong quốc hội và từ đó không còn những
tiếng nói chính trị đối lập nào nữa.[4]
2. Nhu
cầu về ý thức hệ thực dụng (pragmatism)
Sau khi tách khỏi Malaysia năm 1965, chính
quyền Singapore phải đương đầu với nhiều khó khăn. Trước hết,
Singapore mất một thị trường đầy tiềm năng, đặt ra một nghi vấn về khả
năng tồn tại của đảo quốc này. Sau đó, việc quân đội Anh rút đi vào đầu
những năm 1970 đã làm cho sự suy giảm ngân sách quốc gia thêm
trầm trọng. Thêm vào đó là thái độ thù nghịch của các nước láng giềng
như Indonesia trong đầu thập niên 1960 (như có chiến dịch “the
Indonesian Confrontation” chống lại liên bang Malaysia khi Singapore còn
là một thành viên).
Trong
một khu vực mà người gốc Malay là đa số, một nước Singapore mà đa số là
gốc Hoa đã bị các nước láng giềng nhìn với một thái độ nghi ngờ rằng đây
là một nước Trung Hoa thứ 3 (ngoài Trung quốc đại lục và Đài Loan). Phải
đến khi có sự thành lập và phát triển của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), Singapore mới có một diễn đàn đối thoại trong khu vực và từ
đó đã làm giảm đi các áp lực bên ngoài. Bên trong quốc gia, sự căng
thẳng về sắc tộc và tôn giáo cũng như sự xuất hiện của chủ nghĩa cộng
sản là những đe dọa chính.[5]
Để
chống lại sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, Lý Quang Diệu đã áp dụng
triệt để luật Nội an. Luật này cho phép chính quyền bắt giữ mà không cần
xét xử. Đợt bắt giữ lớn và gần đây nhất là vào năm 1987. Lý Quang Diệu
cho rằng “mức lương cho người lao động tăng lên cùng với năng suất,
và khi người lao động hiểu rõ hơn vai trò của họ, và khi người lãnh đạo
kinh tế tạo nên một vị trí vững chắc và an toàn thì những người cộng sản
khó bề khai thác”. Theo ông, “kinh tế phát triển là điều cần thiết cho
sự bền vững của hệ thống chính trị, và sự ổn định chính trị là điều cần
thiết cho phát triển kinh tế.”
Đối diện với một nền kinh tế kém phát triển và một xã hội phức tạp với nhiều sắc
tộc và nhiều ngôn ngữ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Singapore là
mối quan tâm hàng đầu của PAP. Từ đó, một ý thức hệ đã được khai sinh:
“ý thức hệ sống còn” (ideology of survival). Khi nhắc đến ý thức hệ này,
Lý Quang Diệu cho rằng, để một đất nước như Singapore có thể tồn tại, xã
hội Singapore cần được tổ chức lại chặt chẽ hơn và người dân cần có kỷ
luật hơn .Việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải phát triển
kinh tế trên bình diện quốc gia và nâng cao mức sống của mỗi người.
Để làm được điều đó, các tổ chức, đoàn thể tìm kiếm các lợi nhuận cho
riêng các thành viên của đòan thể mình phải hi sinh các quyền lợi riêng
tư mà đóng góp vì quyền lợi chung của quốc gia. Và vì mục tiêu đó, các
tổ chức, đoàn thể… trong xã hội phải chịu sự chi phối và kiểm soát… của
chính phủ.
Chính vì phát triển kinh tế là mối quan tâm hàng đầu, các đóng góp để
phát triển kinh tế lập tức và cấp thời đã được hiểu như là thực dụng và
cần thiết cho quốc gia. Do đó, chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) được xem
như là một danh từ không chỉ về mặt kinh tế mà còn miêu tả ý thức hệ thống
trị trong giai đoạn này (1968-1984).
3. Ý
thức hệ thực dụng
Mục
tiêu trên hết của chủ nghĩa thực dụng là để bảo đảm một sự phát triển
kinh tế liên tục. Mục tiêu này cũng đồng thời là tiêu chí duy nhất để
phát động và đánh giá các hoạt động của chính phủ, theo hướng các hoạt
động này có giúp tăng trưởng kinh tế hay không. Về nguyên tắc, dựa vào
mục tiêu duy nhất này, không một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, văn
hóa, hay kinh tế, thậm chí mang tính chất đời sống riêng tư, mà không bị
nhà nước can thiệp vào.
Một
ví dụ là các chính sách dân số - về mặt nguyên tắc đã xung đột với bản
năng giới tính của con người. Khi thấy những phụ nữ tốt nghiệp
đại học có xu hướng sinh con ít hơn và không quan tâm nhiều đến hôn nhân
so với các phụ nữ ít giáo dục hơn, với niềm tin rằng 80% khả năng của
mỗi người do gen quyết định và có được là nhờ thừa hưởng di truyền, Lý
Quang Diệu đã cảnh báo rằng sự sút giảm nguồn gen tài năng này có thể là
một điều cực kì tệ hại cho một đảo quốc mà nguồn lực quan trọng duy nhất
là con người. Chính quyền đã nhanh chóng đưa ra một chính
sách vào năm 1983 nhằm tăng nguồn lực tài năng. Theo đó, phụ nữ
nào đã tốt nghiệp đại học và chưa lập gia đình thì được khuyến khích lập
gia đình, còn phụ nữ nào đã lập gia đình và có hơn hai con thì được
hưởng những khoản giảm thuế lớn và được ưu tiên chọn trường cho con cái.
Những phụ nữ chưa tốt nghiệp đại học thì được khuyến khích nên có ít
con, và nếu dừng ở hai con thì được số tiền hỗ trợ đến 10.000 đô la
Singapore - số tiền này sẽ được trừ ra khi họ mua nhà của chính phủ.
Chính sách này đã làm mất lòng nhiều cử tri khiến họ đã không ủng hộ PAP
nữa. Chính sách này sau đó đã bị bãi bỏ.
[6]
Một
ví dụ khác. Nếu một người nam Singapore muốn cưới một phụ nữ không phải
là người Singapore, và nếu người nữ này được giáo dục và có bằng cấp
chuyên môn cao (highly educated professional) – điều này được hiểu như
là người phụ nữ sẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế - thì các thủ tục
kết hôn không cần được chính quyền cho phép. Tuy nhiên,
đối với những phụ nữ mà khả năng có thu nhập kém trong xã hội
Singapore, điều này không dễ dàng – các cặp phải đợi một thời gian khá
dài để nhận được chính quyền giấy cho giấy phép kết hôn.
Khi
mà tất cả các mặt của đời sống đều có thể bị chính
quyền can thiệp, dưới danh nghĩa vì mục đích phát triển kinh tế, sự can
thiệp của chính quyền vào các hoạt động của xã hội dựa vào những hoàn
cảnh riêng biệt và không theo những nguyên tắc của một ý thức hệ chính
trị. Sự thay đổi trong chính sách dân số là một ví dụ điển hình. Từ giới
hạn mỗi gia đình chỉ nên có hai con đến chính sách người mẹ tốt nghiệp
đại học, và đến chính sách khuyến khích người dân (ngoại trừ người
nghèo) sinh thêm hiện nay. Trong trường hợp này, “hoàn cảnh” là nhu cầu
nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm phát triển kinh tế.
Sự
can thiệp dựa vào “hoàn cảnh” này sinh ra nhiều hậu quả. Thứ nhất,
mỗi sự can thiệp dựa vào một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội với
mục tiêu duy nhất nhằm đạt hiệu quả trong lĩnh vực đó. Dưới mối quan tâm
vì phát triển kinh tế chung chung, chính sách nguồn nhân lực và chính
sách dân số được tách biệt và độc lập với nhau. Thứ hai, vì những sự can
thiệp chỉ dựa vào “hoàn cảnh” và mang tính rời rạc, không liên tục với
mục tiêu duy nhất là quyết tâm nhằm thay đổi một vấn đề xã hội (vốn đã
được can thiệp trước đây) theo một hướng khác có chủ đích. Cách hành
động này đôi khi cũng bị chỉ trích là không lường trước được những hậu
quả sau này, khiến chính phủ phải có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ
mang tính sửa sai về sau. Trong quá khứ, chính sách lương bổng là một ví
dụ điển hình. Ngay sau khi giá dầu tăng vào năm 1972, vì lo sợ rằng các
nhà đầu tư công nghiệp có thể rút vốn khỏi Singapore nếu giá lương tăng,
chính phủ (thông qua Ủy Ban Lương Bổng Quốc Gia – National Wage Council)
áp dụng một mức tăng lương thấp tùy tiện trong vòng 4, 5 năm. Trong lúc
đó, các nền công nghiệp ở Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc phản ứng bằng
cách tăng năng suất thông qua cơ giới hóa. Mức tăng lương (tùy tiện
thấp) đó sau đó tăng vọt trở lại vào năm 1978; trong vòng 3 năm, mức
tăng lương đã lên gấp đôi. Điều này khiến cho nhiều lĩnh vực công nghiệp
phải cơ giới hóa và sa thải bớt nhân công trong một thị trường vốn đã
rất cạnh tranh. Điều này đã góp phần tạo nên một cơn suy thoái kinh tế
nhẹ vào năm 1985. Chính phủ đã phải giảm mức lương 15% và giữ nguyên mức
tăng lương trong vòng 2 năm kế tiếp.
Và
cuối cùng, với mục đích duy nhất là kinh tế, “chủ nghĩa thực dụng” chỉ
chấp nhận những bằng chứng thấy được và mang tính quyết định thay vì
những bằng chứng mang tính định chất, “mềm” (soft), hay những tranh luận
về nguyên tắc (in principle) mang tính lý thuyết.
Tất
cả các đánh giá về sự thành công hay thất bại của một chính sách đều dựa
vào các giá trị có tính định lượng. Để tự bảo vệ trước sự chỉ trích của
Ngân hàng Thế giới (World Bank) về chính sách dân số dựa vào di truyền – theo đó có sự phân
biệt giữa những phụ nữ tôt nghiệp đaị học và phụ nữ chưa tốt nghiệp đại
học – phát ngôn nhân của bộ giáo dục đã phản ứng bằng cách lặp đi lặp
lại một danh sách dài những con số chứng minh rằng con cái của những phụ
nữ đã tốt nghiệp đại học có thành tích học tập tốt hơn hẳn so với những
phụ nữ chưa tốt nghiệp đại học. Những con số này được xem như là lời
giải cho một cuộc tranh luận. Một cách đơn giản chuyển từ những kết quả
định lượng sang những đánh giá mang tính định tính mà không có bất kỳ
một “ý thức” nào về sự không tương thích mang tính triết học hay phương
pháp luận.[7]
Nhìn
chung, lý tưởng thực dụng hoạt động trên một mục đích duy nhất vừa đồng
thời đóng vai trò là một công cụ duy nhất nhằm đánh giá và thanh minh
chính sách của chính phủ. Mặc khác, nó còn là một công cụ viện dẫn
cho sự can thiệp của chính quyền khi cần thiết vào mọi mặt của
đời sống. Các chính sách này được đưa ra và thực hiện tùy theo hoàn cảnh
và mang tính giai đoạn (và do đó, nó không có tính đồng bộ lâu dài trong
một lĩnh vực đời sống, xã hội….), tùy thuộc vào những mục đích đóng vai
trò nào đó trong việc phát triển kinh tế. Nó không quan tâm đến những
tranh cải mang tính nguyên tắc (in principle) hay lý thuyết, và thường
bỏ ngoài tai những cuộc tranh luận như thế.
Chủ
nghĩa thực dụng được hình thành như một cơ cấu khái niệm có tính hệ
thống được phát triển do những điều kiện vật chất và lịch sử tại thời
điểm PAP tiếp nhận quyền lực. Nói một cách chính xác hơn, dựa trên nhu
cầu vật chất tại thời điểm lịch sử (thập niên 1960, 1970) của Singapore,
chủ nghĩa thực dụng, còn có thể xem là chủ nghĩa tiêu thụ - được xem như
là một ý thức hệ - đã cho phép PAP lãnh đạo Singapore trong một thời
gian dài (và cho đến nay).
Những chính sách xuất phát từ ý thức hệ thực dụng được nhìn nhận là cần
thiết, thực tế và mang tính hiển nhiên – điều này đúng với một ý của Các
Mác:”quá trình chuyển đổi ý thức hệ là quá trình “hiển nhiên hóa” những
mối quan tâm của các giai cấp thống trị (đặc biệt) tại một thời điểm
lịch sử”. Sự hợp pháp của cả hai – ý thức hệ thực dụng và vai trò lãnh
đạo của PAP – đã được nâng lên do những thành công trong những chính
sách của chính quyền nhằm đem lại một cuộc sống sung túc hơn về vật chất
– điều quan trọng nhất mà người dân Singapore (những di dân vì kinh tế)
mong mỏi.
Sự
thành công này cũng đã góp phần vào sự chấp nhận (hay thỏa hiệp) sự can
thiệp hành chính một cách không dân chủ của chính quyền. Đảng PAP khống
chế mọi sinh họat báo chí, văn hóa, giải trí…, những lãnh vực của tư
duy… Giới trẻ không được đào tạo để có tư duy độc lập khác (mọi việc,
mọi suy nghĩ khác… đã có PAP lo… thanh niên chỉ cần lo làm ăn kinh tế
kiếm tiền!).
Tuy nhiên, theo thời gian, những cá tính và trải nghiệm của công dân (cử
tri) đã thay đổi đáng kể. Các công dân (và là cử tri) mới và trẻ không
có bất kỳ một trải nghiệm nào về những khó khăn và hỗn loạn của thập
niên 1950, 1960 – một điều đặt ra những khó khăn cho tính hợp lý của ý
thức hệ thực dụng. Thế hệ trẻ này được giáo dục tốt hơn, có tư duy độc
lập và nhất là cũng có mối quan tâm đến các vấn đề chính trị, xã hội
hơn, đặc biệt là những “hệ quả của một xã hội bị chi phối”. Do đó, những
chỉ trích đã được đưa ra một cách mạnh mẽ và thuyết phục hơn, điều này
khiến chính phủ bắt đầu hướng sự can thiệp đến những mặt “ít nhận thấy
được” trong các lãnh vực đời sống và xã hội. Chẳng hạn như các phụ nữ đã
tốt nghiệp đại học chỉ trích rằng “chính sách người mẹ tốt nghiệp đại
học” đã xâm phạm đời sống riêng tư và không cần thiết, mặc dầu họ được
hưởng lợi từ chính sách đó[8],
v.v.
4.
Đôi điều thêm về ý thức hệ: Giá trị châu Á
Trong trường hợp của Singapore, quá trình đấu
tranh được gọi là chính trị chỉ bắt đầu từ những năm 1950 kéo dài đến
năm 1963 – khi mà các phe phái chính trị ở Singapore tranh giành ảnh
hưởng và theo đuổi các ý thức hệ khác nhau (kể cả ý thức hệ cộng sản).
Sau năm 1963, về mặt chính trị chỉ còn duy nhất là đảng PAP. Vấn
đề kể từ lúc này trở đi, đối với PAP đó là việc xây dựng tính chính
đáng trong vai trò của một đảng cầm quyền. Điều đó chỉ thực sự là
hiển nhiên, nếu PAP có thể tạo dựng một tương lai tốt hơn cho người
dân
trên đảo Singapore cũng như tạo một tương lai mới cho đất nước non
trẻ này. Nói cách khác, đối với PAP, vấn đề lúc này chỉ còn đơn
thuần là kinh tế, và chừng nào PAP còn có khả năng phát triển kinh tế
và
không ngừng nâng cao mức sống của người dân và vị trí của Singapore
thì PAP còn đứng vững. Điều này khá phù hợp với lý thuyết của
Gramsci khi ông cho rằng sự đồng thuận không thể được duy trì chỉ duy
nhất bằng các ý kiến hay lý tưởng, mà bắt buộc phải có các yếu tố mang
tính kinh tế. Tính chính danh của một đảng cầm quyền chỉ có được
khi nó có khả năng cải thiện đời sống vật chất của tầng lớp bị trị. Và
một xã hội được cải thiện về mặt vật chất theo những qui chuẩn giá
trị mới là một xã hội mà ở đó giới cầm quyền lãnh đạo bằng khả năng
lãnh
đạo về mặt tinh thần (moral leadership) với sự hỗ trợ bằng các hình
thức
bắt buộc cần thiết khác. Song, khi nền kinh tế đã
phát triển thì chủ nghĩa thực dụng và tiêu thụ không còn là động
lực và nền tảng của nền chính tri.[9]
Trong suốt thời kì chiến tranh lạnh từ thập niên 1950
đến những năm 1980, châu Âu và Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ kinh tế
các nước châu Á nhằm chống chủ nghĩa cộng sản, bất kể
thành tích nhân quyền và dân chủ của các nước châu Á chống cộng này
(Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Indonesia). Hậu quả là các nước châu Á
này phát triển về kinh tế một cách nhanh chóng, song kèm theo nó là các
“thành tích” về đàn áp nhân quyền, và trì hoãn việc thi hành dân chủ.
Cho
đến những năm đầu của thập niên 1990, thì nguy cơ đe dọa về sự lan tràn
của chủ nghĩa cộng sản không còn nữa. Lúc này bắt đầu nổi lên ý thức mới về tự
do-tư bản và đi cùng với nó là nhân quyền. Điều này bắt đầu đặt câu hỏi
về tính chính danh (legitimacy) của các lực lượng nắm quyền ở các quốc
gia này. Trong suốt thời gian phát triển kinh tế và chịu ảnh hưởng ngày
càng lớn của các nước phương Tây và Hoa Kỳ, các nước châu Á này bắt đầu
chịu các áp lực bên ngoài và bên trong về vấn đề dân chủ và nhân quyền.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã đặt dấu hỏi về sự lũng đoạn
kinh tế do việc can thiệp quá sâu mang màu sắc chính trị vào nền kinh tế
của đất nước. Nó cũng khiến cho chính quyền yếu dần trong lối biện hộ
đàn áp chính trị vì mục đích kinh tế. Để củng cố vị trí của
mình, các đảng chính trị “sáng tạo” ra các lập luận chính trị
gần giống với ý thức hệ chính trị nhằm tuyên truyền người dân về tính
hợp pháp của chính quyền. Các lập luận này xoay quanh đặc tính văn hóa,
xã hội và các thành tựu phát triển kinh tế. Cốt yếu, lý thuyết
“các giá
trị châu Á” (Asian values) là một lập luận chính trị nhằm mục đích ấy.
“Các giá trị châu Á” được Lý Quang Diệu của Singapore và Mahathir của
Malaysia (hai nước có nền kinh tế phát triển nhất
Đông Nam Á vào thời kỳ đó) ủng hộ mạnh mẽ.
Cơ bản, các
giá trị Châu Á bao gồm: (i) có đạo đức cao trong công việc
(high work ethics), (ii) thành đạt về học vấn (education attainment), và
(ii) định hướng gia đình và nhóm (family and group orientation). Ngoài
ra, tùy theo hoàn cảnh văn hóa, lịch sử, “giá trị châu Á” còn bao gồm
vài yếu tố khác, chẳng hạn như “Khổng giáo” đối với Singapore, và “Hồi giáo” với Malaysia.
Nhìn chung, các
“giá
trị châu Á”
này có thể xem như một biến thể của chủ nghĩa cộng đồng
(communitarism).
Các
học giả phương Tây là những người đầu tiên đưa ra lý giải rằng Khổng
giáo là nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công kinh tế của các nước Đông
Á. Các “công trình khảo cứu” này thực ra là liên quan nhiều hơn đến kinh
tế phát triển chứ không phải về chính trị học. Tuy nhiên, sau đó một số
chính trị gia châu Á lấy làm thích thú với ý tưởng này, và cải biên nó
thành một lập luận về chính trị hướng đến các giá trị tập thể
(collective orientation), điều này cũng được dùng để biện minh rằng các
giá trị về dân chủ tự do (liberal democracy) là vắng bóng ở châu Á (vì
người dân đã chịu ảnh hưởng về Khổng giáo và các giá trị châu Á); và các
giá trị châu Á như vậy thích hợp với người châu Á vì đã tạo nên một sự
thành công (về kinh tế) đối với các nước tư bản châu Á. Các giá trị châu
Á mang giá trị tập thể này ngược với chủ nghĩa tự do của phương Tây và
đặc biệt của Hoa Kỳ. Xin mỡ một dấu ngoặc là một điều đáng để ý là trước
khi chọn các “giá trị châu Á”, Lý Quang Diệu đã nhờ sự cố vấn của các
một số tu sĩ thiên chúa giáo Tây Âu giúp ông thiết lập một ý thức hệ
thống trị. Song sự việc không thành, họ Lý đã lựa chọn “giá trị châu Á” và số phận các tu
sĩ này vẫn còn là một “bí mật quốc gia”!
Trong trường hợp Singapore, chủ trương ban đầu của PAP và của Lý
Quang Diệu là dùng tiếng Anh như một ngôn ngữ cho thương mại và kỹ
thuật, hay nói cách khác là dùng tiếng Anh như một công cụ kinh tế. Ông cho rằng chỉ có thể bằng tiếng Anh thì các sinh viên
sau khi ra trường mới có thể nắm bắt được các kiến thức của thế giới và
làm được việc. Tuy nhiên, theo thời gian, tiếng Anh đã dần dần thay thế
tiếng mẹ đẻ và đã trở thành ngôn ngữ đầu tiên (first language). Các
thế hệ sau này, không còn sõi tiếng mẹ đẻ và do đó, các văn hóa truyền
thống bị dần dần thui chột. Mặc khác, thông qua tiếng Anh, họ đã tiếp
cận với văn hóa phương Tây và dần chịu ảnh hưởng. Văn hóa Trung Hoa và
Khổng giáo cũng chịu chung số phận. Kết quả là các “giá trị châu Á”
thỉnh thoảng chỉ xuất hiện ở mức lập luận của các chính trị gia. Trong
khi người dân chỉ quan tâm đến kinh tế. Nói thêm là ngôn ngữ của người
Singapore thường dùng hiện nay gọi là Singlish: một thứ tiếng Anh pha
lẫn tiếng Hoa cả về ngữ điệu và từ vựng. Chỉ trong những dịp
trang trọng thì họ mới dùng tiếng Anh chuẩn về ngữ pháp. Có một sự “đánh
giá cao” đối với những người nói tiếng Anh chuẩn. Và tiếng Hoa ở
đây “có một giá trị bình dân hơn” so với tiếng Anh.
5. Các
tổ chức “chính trị nhánh” được sự hỗ trợ của chính phủ
Như đã
nêu ở trên, tính chính danh lãnh đạo của PAP dược xác định và thể hiện ở
sự thành công về mặt kinh tế của Singapore. Tuy nhiên, để có được một vị
trí thống lĩnh và chi phối chính trường một cách tuyệt đối, PAP, từ
những ngày đầu tham gia chính trường Singapore, đã dựa vào những cơ sở
chính trị nhánh (parapolitical institutions) để củng cố vị trí. Bằng
cách áp dụng chính sách “huy động và tham gia có điều khiển” (controlled
mobilization and participation), những cơ sở chính trị nhánh này vừa có
mục đích hướng dẫn những nhân tài và thu dụng họ cho các lĩnh vực khác
nhau của chính phủ. Ngoài ra, nó còn đóng vai trò như một môi trường
truyền thông kiến tạo một hệ thống thông tin giữa người dân và chính
quyền. Một khi điều khiển được những kênh thông tin hiệu quả như vậy và
ngăn không cho đối lập tiếp cận với các cơ sở chính trị nhánh này, PAP
đã thành công trong việc góp phần cô lập các đảng đối lập.
Ba
loại hình “cơ sở chính trị nhánh” chính là: Trung Tâm Cộng Đồng
(Community Centre - CC), Trung Tâm Tư Vấn của Công Dân (Citizen’s
Consultative Committees), và Ủy Ban Địa Phương (Town Council).
Việc dựa vào các cở sở chính trị này để củng cố quyền lực bắt đầu nổi
bật từ những năm đầu thập niên 1960s.
Trong những năm đầu thập niên 1960s, sau khi bị chia tách trong đảng PAP
giữa hai phe: phe cộng sản (Barisan Sosialis) và phe Tây học thân phương
Tây (PAP). Đứng giữa tình thế khó có thể củng cố được lực lượng trong
một khoảng thời gian ngắn (khi mà khả năng tiếp cận các nghiệp đoàn và
các cộng đồng người Hoa nằm trong tay các lãnh tụ theo cánh tả) để thực
thi một vai trò quyết định trong một giai đoạn lịch sử quan trọng, các
lãnh đạo PAP đã dựa vào các CC để tuyên truyền và củng cố những ảnh
hưởng tới những cơ sở ở các khu vực dân cư. Kinh nghiệm nhận được và sự
thành công trong chiến lược này là một nguyên nhân để PAP thúc đẩy việc
mở rộng một cách có kiểm soát các cơ sở “chính trị nhánh” tương tự sau
này.[10]
5.1.
Trung Tâm Cộng Đồng (Community Centres - CC)
Cho đến năm
1959, các CC vốn được thành lập từ dưới thời thuộc địa, đóng một vai trò
bên lề trong xã hội Singapore và hoạt động giống như các trung tâm giải
trí cộng đồng. Một số được quản lý độc lập bởi
các ủy ban địa phương, trong khi một số khác bởi Bộ Phúc Lợi Xã Hội
(Social Welfare Department). Tuy nhiên, ảnh hưởng của các CC từ từ vượt
quá chức năng ban đầu khi hình thành dưới thời thuộc địa. Các trung tâm
này dần đóng vai trò tích cực hơn liên quan đến các chính sách như nhà
cửa, trợ cấp xã hội, hoặc các trung tâm cứu tế sau khi quân đội Nhật đầu
hàng. Vị trí ảnh hưởng chính trị của hệ thống các trung tâm này từ từ
nổi lên và được nhìn nhận từ trước khi xảy ra sự kiện đổ vỡ trong PAP.
Các trung tâm này có một vai trò tích cực trong việc truyền bá các chủ
trương, chính sách của nhà nước và hỗ trợ trong nỗ lực hình thành một
quốc gia. Ngoài ra, nó còn đóng vai trò trong việc củng cố quyền lực của
PAP bằng cách tăng cường ảnh hưởng và sự hiện diện của PAP xuống tới các
khu vực dân cư nghèo khó.
5.2.
Trung Tâm Tư Vấn của Công Dân (Citizen’s Consultative Committees - CCC)
Các
CCC được thành lập vào năm 1965 và là một phần trong cơ chế nhằm tìm
kiếm và nuôi dưỡng những lãnh đạo không chính thức (informal leader).
Một cách riêng biệt, các tổ chức này còn được nhìn nhận như là một cơ
chế nhằm tăng cường việc xử lý những bất đồng nhỏ, và được làm theo mô
hình trước đây khi quân đội Nhật chiếm đóng Singapore. Trong thời kì
Nhật chiếm đóng, các hội đồng làng (village council) đã được dựng lên để
ổn định trật tự và làm nhiệm vụ thông tin cho quân đội Nhật các tổ chức
chống đối cơ sở. Sự khẩn cấp hình thành một cơ chế xử lý như vậy bắt
nguồn từ kinh nghiệm cuộc xung đột sắc tộc xảy ra vào năm 1964; trong
cuộc xung đột đó, các lãnh đạo phải viện đến các lãnh đạo không chính
thức ở địa phương để hòa giải. Các CCC vừa truyền đạt thông tin hai
chiều: các nguyện vọng và đề đạt từ nhân dân đến chính quyền và các
chính sách từ chính quyền ngược trở lại. Mỗi đơn vị bầu cử có một CCC và
thành viên của CCC do Nghị sĩ khu vực đề cử.
5.3. Ủy
Ban Địa Phương (Town Council -TC)
Mô
hình các TC được đề xướng năm 1985 và được thí điểm lần đầu tiên vào năm
1986. Đây cũng là một nỗ lực của chính quyền trong việc duy trì cơ chế
thông tin và ảnh hưởng tới các cơ sở địa phương. Mục tiêu ban đầu của
các TC là tạo một cơ chế để các cư dân và các Nghị sĩ cùng nhau hợp tác
nhằm quản lý các khu nhà chung cư (vốn hiện nay chiếm tới 90% nhà ở của
người Singapore) và giữ gìn môi trường xung quanh. Sự thành công của các
TC được đánh giá không chỉ ở khả năng quản lý các khu chung cư mà còn ở
khả năng thúc đẩy sự hợp tác của người dân đóng góp những đề xuất trong
việc quản lý. Các viên quản lý các khu TC thường là các vị lãnh đạo
trong cộng đồng qua sự chọn lựa của các Nghị sĩ. Và chính vì vậy, khả
năng của các Nghị sĩ được đánh giá một phần qua khả năng điều hành các
khu TC và khả năng quản lý các quỹ được phân bổ về.
6.
Tham nhũng ở Singapore
Theo Tổ chức Minh Bạch Thế Giới năm 2006,[11]
Singapore xếp hạng thứ 5 trong bảng xếp hạng về đánh giá mức độ tham
nhũng trên thế giới (Corruption Perception Index – CPI). Trong một đất
nước mà do một đảng thống trị, chỉ số này còn phần nào phản ánh sự trong
sạch của đảng lãnh đạo. Vụ án tham nhũng nổi bật nhất trong PAP xảy ra
vào năm 1986. Bộ Trưởng Phát Triển Quốc Gia Teh Cheang Wan đã tự tử 12
ngày sau khi bị thẩm vấn trong vòng 16 giờ đồng hồ bởi hai nhân viên cục
Điều Tra Hành Vi Tham Nhũng Singapore (Corrupt Practices Investigation
Bureau - CPIB). Trong vụ này, Teh bị tố cáo bởi một nhà thầu xây dựng và
bị buộc tội nhận khoản tiền lên đến một triệu đô la Singapore trong hai
năm 1981 và 1982 từ hai nhà phát triển dự án để cho phép một trong hai
người giữ lại phần đất vốn đã được thu lại bởi nhà nước, và giúp đỡ
người kia trong việc mua lại phần đất của nhà nước để phát triển dự án
cá nhân. Hệ quả của vụ án này là việc tu chỉnh lại luật tham nhũng vào
năm 1989, theo đó cho phép sung công tài sản có đựợc liên quan đến tham
nhũng. Dựa theo luật mới, trong khoảng thời gian sáu năm tình đến ngày
người đã chết, bất cứ tài sản nào có được do liên quan đến hành vi tham
nhũng thì sẽ được sung công quỹ. Những tài sản sung công quỹ bao gồm
những khoản mà không chứng minh được thu nhập hợp pháp thỏa mãn những
yêu cầu giải trình của tòa án.
Ngoài
ra, việc chống tham nhũng còn đóng vai trò như một cương lĩnh hoạt động,
và nhận được nhiều ủng hộ của cử tri, góp phần tạo dựng nên vị trí chính
trị cho PAP từ những ngày đầu tham gia chính trường. Hành động quyết tâm
chống tham nhũng đóng một vai trò quan trọng dẫn đến thắng lợi của PAP
của Singapore vào năm 1959. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Ủy
Ban Thành Phố (City Council) vào tháng 12 năm 1957 và trên cương lĩnh
chống tham nhũng – vốn đã là một vấn đề nổi cộm có từ thời thuộc địa Anh
– PAP khởi đầu chiến dịnh vận động tranh cử bằng cách tiết lộ Bộ Trưởng
Giáo Dục của Mặt Trận Lao Động (Labour Front), Chew Swee Kee, đã nhận
tiền hối lộ từ chính quyền Mỹ nhằm đánh bại PAP trong cuộc tổng tuyển
cử. Thủ Tướng (Chief Minister), Lim Yew Hock, đã chỉ định một Ủy Ban
Điều Tra, và Chew đã thừa nhận nhận tổng cộng bảy trăm ngàn đô la
Singapore vào hai lần từ chính phủ Mỹ. Việc thừa nhận tham nhũng của
Chew đã đánh dấu chấm hết cho số phận của đảng của ông, và PAP thắng cử
lớn vào năm 1959.
Trong những năm đầu lãnh đạo, vì không có khả năng để nâng lương cho các
nhân viên công vụ, để chống tham nhũng PAP đã bắt đầu xiết chặt các luật
vốn đã có để làm giảm cơ hội tham nhũng, đồng thời tăng mức hình phạt
các hành vi tham nhũng. Các luật về chống tham nhũng lần lượt được ra
đời và tu chỉnh theo thời gian (1963, 1966, 1981, 1989). Bên cạnh đó,
CPIB được thành lập và được trao một quyền hành lớn hơn, chịu trách
nhiệm theo dõi, điều tra các hành vi liên quan đến tham nhũng của bất cứ
cá nhân hay tổ chức nào và sẵn sàng bắt giữ nếu thấy cần thiết. Được
đặt trong phủ thủ tướng, nên mặc dù với một số lượng nhân viên không
nhiều (71 nhân viên, số liệu năm 1994), CPIB thực hiện được vai trò của
mình bằng cách kết hợp với các cơ quan khác. Những năm sau này, khi nền
kinh tế khởi sắc và quốc gia có một ngân khoản dồi dào hơn, chính phủ
nâng lương công chức từ từ, một phần nhằm thu hút nhân tài nhằm tăng
hiệu quả hoạt động của chính quyền, một phần giảm thiểu tham vọng tìm cơ
hội tham nhũng của các công chức nhà nước .[12]
Thành
tích chống tham nhũng của Singapore có được trước hết là nhờ một ý
chí chính trị mạnh mẽ và người cầm quyền đủ quyền lực và trong sạch để
thực thi việc chống tham nhũng. Không thể nói đến chuyện chống tham
nhũng khi mà chỉ có những “con cá nhỏ” bị đem ra xử trong khi những “con
cá lớn” vẫn nhởn nhơ. Một cơ quan chống tham nhũng độc lập, không trực
thuộc lực lượng cảnh sát (vốn thường rất tham nhũng), và có đủ quyền
lực để thực thi những biện pháp dựa trên một bộ luật hợp lý mang tính
răn đe là một điều kiện cần cho việc chống tham nhũng thành công. Một
mức lương hấp dẫn để cho viên chức có thể sống được bằng cách tinh giản
bớt bộ máy sẽ giúp cho giới công chức hạn chế được ý muốn tham nhũng
bằng mọi cách. Việc tinh giản bộ máy nằm trong cơ chế tinh giản các thủ
tục cũng sẽ đóng vai trò giảm bớt các cơ hội để tham nhũng. Và cuối
cùng, nhờ vào điều kiện đặc thù của một đảo quốc nhỏ, Singapore dễ dàng
quản lý và thực hiện các luật hơn. Trong khi cục chống tham nhũng của
Hồng Kông có một cơ quan tuyên truyền và đưa ra các bản báo cáo thu chi
tài chính hàng năm, thì CPIB của Singapore đã giữ một khoảng cách với
dân chúng và có tính bí mật. Các chính sách của Singapore tập trung vào
việc giảm cơ hội để tham nhũng và động lực để tham nhũng, thì Hong Kong
chỉ tập trung vào việc giảm bớt cơ hội để tham nhũng.
7. Tạm
kết luận
Sự
hiện diện của các viên chức nước ngoài trong một chế độ thuộc địa dù với
bất kì một khẩu hiệu nào (kể cả khai sáng) ở vào thời điểm cuối của
phong trào thuộc địa đã trở thành một hình ảnh không mấy thiện cảm đối
với người dân địa phương. Đây cũng là thời điểm mà phong trào đòi độc
lập của các nước thuộc địa dâng lên cao và lan tỏa. Nếu hiểu rằng chính
trị là nghệ thuật dẫn dụ lòng người, thì việc thõa mãn những tâm tư,
nguyện vọng thầm kín nhất của quần chúng là bước ban đầu. Không gì hay
hơn trong thời điểm này là trương lên một khẩu hiệu xây dựng một đất
nước độc lập tự chủ, dân chủ và một tương lai tươi sáng hơn cho những
con người trên đất nước ấy. PAP đã dựa trên một quan điểm như vậy để
tranh thủ một vị trí quyền lực lâu dài cho mình.
Ở
đây, một ý thức hệ rõ ràng chỉ được hình thành sau khi giới lãnh đạo nắm
giữ được chính quyền. Và do đó, ý thức hệ chỉ đóng vai trò là một phương
cớ nhằm thực hiện một trật tự xã hội mới, trong đó một đồng thuận xã hội
mới được hình thành và dẫn dắt bởi các ý tưởng của giới lãnh đạo. Như
trên đã đề cập, một cuộc cách mạng xã hội được xem là thành công và có ý
nghĩa, trước hết, chỉ khi theo sau nó phải là một sự phát triển kinh tế
trên bình diện quốc gia và sự nâng cao đời sống vật chất trên từng cá
thể. Và khi mà đa số người dân không có nhiều thì giờ để tìm hiểu một
cách tường tận một hệ thống ý thức hệ - vốn dĩ đã quá hàn lâm và thường
được biết đến chủ yếu bởi một vài điểm nhấn – , thì sự nhìn nhận một ý
thức hệ được gắn liền với sự thành công về mặt kinh tế là điều dễ hiểu.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với một đảng cầm quyền trước hết là có
hay không một giải pháp kinh tế phát triển quốc gia. Điều này được nhìn
thấy rõ hơn khi các chế độ chính trị sau một thời gian dài ổn định đã
sụp đổ khi mất khả năng kiểm soát hay phát triển nền kinh tế.
Và cuối cùng, sự ủng hộ của các đảng chính trị đến từ người dân. Việc
tạo ra một cơ chế nhằm phát hiện, tuyển dụng, và đào tạo những lãnh đạo
tự nhiên và tài năng xuất thân từ những cơ sở quần chúng sẽ giúp cho các
đảng chính trị củng cố được quyền lực nền tảng. Bên cạnh đó, một cơ chế
như vậy cũng sẽ đóng vai trò như một kênh truyền thông hai chiều nhằm
thông tin các chủ trương, chính sách của đảng chính trị đến người dân và
thu nhận những góp ý từ phía ngược lại. Phương pháp này đã chứng minh sự
hiệu quả trong việc giảm ảnh hưởng và quyền lực của đối lập bằng cách
không cho đối lập tiếp xúc với những cơ chế như vậy.
Sự
thành công về kinh tế của Singapore trong suốt hơn 40 năm đã là một đề
tài thường xuyên được nhắc đến và trích dẫn như một mô hình tham khảo về
phát triển kinh tế đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là tại các
nước mà mô hình độc đảng vẫn đang còn thống trị. Nó được đư ra như là
một biện cứ nhằm bảo vệ cho lập luận rằng mô hình độc đảng vẫn có thể
đưa đất nước đi lên về mặt kinh tế. Sẽ là một thiếu sót khi nhìn về sự
phát triển của một đất nước thông qua duy nhất chỉ những con số về kinh
tế và mức sống của người dân. Sự phát triển trên bình diện quốc gia còn
nằm ở những thang giá trị về văn hóa và tinh thần – những giá trị mà khó
có thể được cân đo bằng những con số, mà bằng chính sự cảm nhận thông
qua trao đổi hay tiếp xúc, và những phát kiến mang tính sáng tạo. Những
giá trị này đóng vai trò nòng cốt, nền tảng cho những hành động dẫn đến
những đột phá trong kinh tế hay kĩ thuật, đặt biệt trong thời đại kinh
tế tri thức, dựa vào khả năng tư duy độc lập và sáng tạo ngày nay. Ngoài
ra, nó còn giúp kiến tạo nên một văn hóa đặc thù và giúp duy trì bẳn sắc
văn hóa của một dân tộc.
Trở
lại trường hợp Singapore, việc dễ nhận thấy nhất thông qua tiếp xúcvới
tầng lớp thanh niên đó là: mối quan tâm duy nhất của họ là kinh tế - có
một mảnh bằng tốt, một công việc tốt và một cuộc sống sung túc về vật
chất để thụ hưởng. Mọi vấn đề khác đã có chính phủ lo. Sự thờ ơ của tầng
lớp có học thức này đối với đất nước đã được chính ông Lý Quang Diệu lên
tiếng cảnh báo. Tuy nhiên, làm sao trách được họ khi mà PAP độc quyền
đưa ra những chính sách và quan điểm; và giới trẻ có một cảm nhận họ
đứng bên lề các tranh luận chính trị - một hệ quả của sự đàn áp các ý
kiến chỉ trích những chính sách hay hành động của chính phủ và các thành
viên vốn đã từng xảy ra trước đây. Các đề tài hay ý kiến mang tính chỉ
trích hay phê phán chính phủ đã được hiểu là nhạy cảm.
Một ví dụ khác đó là việc thiếu hẳn một văn hóa nghiên cứu và tinh
thần khoa học ở các trường đại học lớn ở Singapore. Một môi trường văn
hóa nghiên cứu (thường xuất hiện ở các trường đại học danh tiếng, nơi
đào tạo ra các vị lãnh đạo của quốc gia) thường là nơi diễn ra những
cuộc tranh luận về bất cứ những phát kiến hay ý tưởng mới mà hầu như
không có đề tài cấm kỵ nào. Môi trường này là nơi để các trí thức trẻ
trao đổi và trau dồi tư duy, tư tưởng. Việc thiếu một môi trường như thế
khiến những trí thức trẻ của Singapore tốt nghiệp đại học trở thành
những người “thợ cao casp của nền công nghiệp hóa” hơn là những trí thức
có tư duy độc lập và phản biện, cũng như có mối quan tâm nhiều hơn về
đất nước – lực lượng nòng cốt để đóng vai trò những lãnh đạo tương lai
của đất nước.
Để
lập khoảng trống này, những sinh viên ưu tú sau khi tốt nghiệp phổ thông
trung học đã được tuyển lựa để đưa đi đào tạo tại chủ yếu là Anh và Hoa
Kỳ. Những sinh viên này sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành những người lãnh
đạo tương lai của Singapore. Và một hệ quả khác bắt đầu: quá trình Tây
hóa không cưỡng được bắt đầu từ chính những người lãnh đạo Tây học.
Một
câu hỏi được đặt ra đó là Singapore có thể làm mô hình (một đảng để phát
triển đất nước) tại những quốc gia đang phát triển có diện tích và dân
số lớn hơn gấp nhiều lần, và với một sự khác biệt về văn hóa, tư tưởng
lớn. Một sự so sánh như thế khá khập khiểng và thường xảy ra nhiều tranh
luận. Nhưng một vấn đề dễ nhận thấy đối với Singapore đó là sự can thiệp
quá sâu và mọi sinh hoạt của đời sống người dân (theo cách này hay cách
khác) và tầng lớp trí thức trẻ nằm ngoài PAP dường như không có ý kiến
nào đối với hướng đi của đất nước. Một cảm giác giống như một “công dân
nước ngoài”!
Chú thích
[1] PAP,
viết tắt của People Action Party, đảng Nhân Dân Hành Động, nắm
quyền ở Singapore từ khi nước này được thành lập cho đến nay.
[2] Lý
thuyết của Gramsci phát triển nhằm vạch ra các quá trình để xây
dựng một vị trí lãnh đạo về tinh thần (moral leadership) thông
qua quyền lãnh đạo ý thức hệ. Xem Antonio Gramsci, 1971, “Selections
from the Prison Notebooks” Lawrence and Wishart. New York,
trang 181-182.
[3] Beng
Huat Chua, 1995, “Communitarian Ideology and Democracy in
Singapore” , London: Routledge, trang 13.
[4] Beng
Huat Chua (1995), trang 16-17.
[5] Beng
Huat Chua (1995), trang 48-50.
[6] Beng
Huat Chua (1995), trang 64.
[7] Beng
Huat Chua (1995), trang 69-70
[8] Beng
Huat Chua (1995), trang 75.
[9] Vài
điều về vấn đề ý thức hệ: Thứ nhất, một ý thức hệ chính trị là
một hệ thống khái niệm phức hợp, được tổ chức một cách lỏng lẻo,
và nòng cốt bởi một vài khái niệm chính mà những người cầm quyền
viện dẫn nó như là những giải pháp cho những vấn đề trong hệ
thống chính trị. Việc phân tích các tác động của những khái niệm
ý thức hệ phải tập trung vào tính hợp lý tùy theo hoàn cảnh lịch
sử, thay vì các cấu trúc hệ thống của chúng. Chính vì thế mà
khoảng cách giữa yêu cầu cho tính hệ thống và yêu cầu khi tập
trung vào tính hợp lý theo hoàn cảnh lịch sử có thể bị khai thác
như là một cơ sở cho những chỉ trích mang tính ý thức hệ.
Thứ
hai, sự đồng thuận (hay quyền lãnh đạo) về ý thức hệ cho phép hệ
thống những ý tưởng của nhóm cầm quyền được chấp thuận một cách
khá lỏng lẻo, được dần dần truyền bá bởi những giai cấp bị trị
và được xem như là “điều thực tế hiển nhiên trong đời sống hằng
ngày”. Trong những điều kiện như vậy, “chính sách hóa” xã hội
(do sự đồng thuận không bao giờ là tuyệt đối) được sử dụng như
là bước cần thiết để duy trì lợi ích chung của xã hội theo yêu
cầu của số đông. Trong đó, giới cầm quyền và giới bị trị là hai
thực thể chính trị cùng chia sẻ những khái niệm ý thức hệ và
cùng đóng góp xây dựng một trật tự xã hội vốn do giới cầm quyền
đề xướng. Do đó, các thành viên của đảng cầm quyền không thể
hiện diện như những kẻ cai trị mà thay vào đó là những lãnh đạo
của nhân dân (,làm gương cho nhân dân). Ngược lại, khi không có
sự đồng thuận về ý thức hệ, sự cưỡng bách hay dùng vũ lực là
điều cần thiết để dập tắt những nhóm chống đối. Trong những
trường hợp như vây, việc thể hiện quyền lực đóng vai trò chi
phối. Điều này thường có nguy cơ dẫn đến sự khủng hoảng về tính
chính danh của đảng cầm quyền. Do đó, các đảng cầm quyền luôn cố
gắng cầm quyền bằng khả năng lãnh đạo (leadership) thay vì khả
năng dùng vũ lực (naked force); và họ thường cố gắng dùng một
nguồn lực đáng kể nhằm duy trì một điều kiện đồng thuận về chính
trị.
Thứ
ba, bởi vì những điều không tương đồng mang tính hệ thống giữa
những khái niệm và sự hợp lý của những khái niệm này tùy vào
điều kiện lịch sử, những khái niệm liên quan thường được viện
dẫn để đưa ra những lối giải thích có tính thuyết phục hơn tới
giai cấp mà nhóm cầm quyền muốn nhắm tới. Điều này đôi khi cũng
tạo ra kẻ hở cho những chỉ trích. Tuy nhiên, dưới những điều
kiện đồng thuận như vậy, các chỉ trích (thường có) không ảnh
hưởng gì mấy đến tính “hợp pháp” của lối giải thích xuất phát từ
những người cầm quyền, vốn đã nhận được sự ủng hộ mạng mẽ của
một lực lượng trung thành đông đảo.
Cuối
cùng, vì sự đồng thuận ý thức hệ chính trị là một sự kiện có
tính chung chung được phân tán trong toàn chính thể, nó không
thể đạt được một cách giới hạn vào một lãnh vực đời sống cụ thể
nào. Và do đó, đối với đa số quần chúng, vốn không có nhiều thời
gian và kiên nhẫn để cố hiểu hết ý nghĩa của những khái niệm
này, sự thăng tiến về các điều kiện sống và các thành tựu thấy
được trên bình diện quốc gia và cá nhân là những câu trả lời của
họ đối với một ý thức hệ.
Bắt
đầu là các dự án xây nhà, bán giá rẻ và trả góp cho người dân,
chăm lo, nâng cao giáo dục, y tế, rồi nâng cao mức sống người
dân, đến tạo một vị thế cho Singapore trên diễn đàn thế giới.
Các chính sách liên tục thành công đã mặc nhiên tạo được một
đồng thuận trong dân chúng về tính chính đáng của PAP trong lãnh
đạo và ý thức hệ của nó.
[10]
Michael Hill và Lian Kwen Fee, 1995, “The politics of
national bulding and citizenship in Singapore”, London:
Routledge, trang 170-187.
[12] Jon
S. T. Quah, 1995, “Controlling corruption in city-states: A
Comparative Study of HongKong and Singapore”, Crime, Law &
Social Change, Kluwer Academic Publishers.
Mức lương
của các viên chức cao cấp trong chinh quyền Singapore hiện nay
thuộc hàng cao. Trong lần điều chỉnh lương vào năm 1989, lương
hàng tháng của nhân viên hạng năm (Staff Grade V) là S$42,000
(US$26,103). Tuy vậy, mức lương này vẫn được cho là còn khiêm
tốn so với các lãnh đạo cao cấp trong các khu vực tư nhân.
Tham
khảo chính
Beng Huat
Chua, 1995, “Communitarian Ideology and Democracy in Singapore”,
London: Routledge.
Beng Huat
Chua, 2004, “Communitarian Politics in Asia”, London: Routledge.
Gentile,
Gentile, 2006, “Politics as Religion”, Princeton University
Press, 2006
Gramsci,
Antonio “Selections from the Prison Notebooks” Lawrence and
Wishart. New York, 1971
Jorge
Larrain,“The Concept of Ideology”, The University of Georgia
Press, 1979
Jorge
Larrain, “Marxism and Ideology”, The Macmillan Press Ltd,1983
John
Clammer, “Singapore Ideology, Society, Culture”, Chopmen
Publishers, 1985
István Bessenyei, Jean-Pier Cotton, Wieland, et al.
“Rethinking Ideology: A Marxist Debate”
International General/IMMRC, 1983.
Lucio
Colletti “From Rousseau to Lenin – Studies in Ideology and Society”,
Monthly Review Press, 1972
Michael
Hill và Lian Kwen Fee “The politics of national bulding and
citizenship in Singapore”
Robert
Porter, “Ideology – Contemporary, Social, Political and Cultural
Theory”, University of Wales Press, 2006
Sassoon
Anne Showstack “Gramsci’s Politics”, Croom Helm, London 1980
“Maker
of Modern Social Science – Karl Marx” edited by Tom Bottomore,
Prentice –Hall, Inc, 1973.
Waxman,
Chaim I., 1968, “The End of Ideology Debate”, Funk & Wagnalls, A
Division of Reader’s Digest Books, Inc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét