Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

Mổ xẻ các khái niệm Lạm phát, Giảm phát và Thiểu phát

Những khái niệm liên quan mật thiết đến sức khoẻ của một nền kinh tế.
 1. Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.
Sự gia tăng liên tục (persistent) của mức giá chung (price level) trong nền kinh tế (Dermot McAleese, 2002). Như vậy sự tăng giá của một vài mặt hàng cá biệt nào đó trong ngắn hạn ngoài thị trường thì cũng không có nghĩa đã có lạm phát. Các nhà kinh tế thường đo lạm phát bằng hai chỉ tiêu cơ bản là CPI (Consumer price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator). Cách tính thứ nhất sẽ dựa trên một rổ hàng hóa tiêu dùng (goods basket) và giá cả của những hàng hóa trong rổ ở hai thời điểm khác nhau. Còn cách tính thứ hai thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau, thông thường theo ngôn ngữ thống kê là giá cố định (constant price) và giá hiện hành (current price). Về cơ bản thì hai cách tính này không có sự khác biệt lớn. Phương pháp GDP deflator sẽ tính lạm phát chính xác hơn theo định nghĩa của lạm phát. Tuy nhiên CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào căn cứ vào rổ hàng hóa, còn GDP deflator thì chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi có báo cáo về GDP của năm đó.  
Như vậy, những thông tin về thước đo lạm phát đến dân chúng hàng ngày chủ yếu được tính từ phương pháp CPI. Nhưng CPI lại không thể đo lạm phát một cách chính xác bởi nó bị tác động bởi hai yếu tố gây sai lệch. Những yếu tố gây sai lệch này chủ yếu đến từ rổ hàng hóa được qui định trước. Sai lệch cơ cấu (composition bias) vì rổ hàng hóa chậm thay đổi, nó không bao gồm những hàng hóa tiêu dùng mới phát sinh nhưng được đa số người tiêu dùng sử dụng. Ví dụ ở TP.HCM khi mọi người đều có mobile phone, giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhưng nó lại không nằm trong rổ hàng hóa. Sai lệch thứ hai là sai lệch thay thế (substitution bias), khi giá cả một loại hàng hóa nào đó trong rổ gia tăng, dân chúng sẽ chuyển sang tiêu dùng mặt hàng hóa thay thế với giá rẻ hơn. Ví dụ khi thịt gà trở nên mắc hơn do dịch cúm thì người tiêu dung sẽ chuyển sang ăn cá biển với mục đích là cung cấp chất đạm cho cơ thể. Từ hai sai lệch trên chúng ta nhận thấy rằng, nếu tính lạm phát từ CPI thì có thể dẫn đến một dự báo lạm phát quá mức (overstated inflation) vì những mặt hàng trong rổ đang tăng giá còn những mặt hàng ngoài rổ lại đang giảm giá.
2 Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát, do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm. Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề cập đến giảm phát, người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.
Giảm phát có nghĩa là giá cả hạ thấp. Về trực giác, người tiêu dùng thích giảm phát nhưng người sản xuất lại không ưa gì. Khi giá có khuynh hướng tụt giảm, người tiêu thụ ngưng chi tiền, chờ coi bao giờ giá xuống hết cỡ mới mua sắm. Nhà sản xuất không bán được thì phải giảm giá để “chiêu” khách. Bớt sản xuất thì phải cho nhiều người nghỉ việc. Người thất nghiệp sẽ bớt tiêu thụ đi. Như vậy thì giá cả lại bị áp lực phải xuống nữa. Nhiều người cho rằng, vòng luẩn quẩn đó nguy hiểm hơn là lạm phát vì cả sản xuất và kinh doanh sẽ đình trệ, đóng băng. Để phòng bệnh này, người ta phải nới lỏng tiền tệ, giảm lãi suất hoặc thuế để kích thích tiêu dùng.
3 Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát.
Theo “Từ điển kinh tế ngân hàng Anh – Nga (M.1999), thiểu phát là hiện tượng giảm giá hàng hoá và dịch vụ hay hiện tượng tăng sức mua của đồng tiền do lượng tiền mặt trong lưu thông sụt giảm so với lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hữu trên các thị trường mỗi quốc gia, đó là hiện tượng ngược lại với lạm phát thường đi kèm với nó là thu hẹp sản xuất, giảm vốn đầu tư, giảm công ăn việc làm”.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
 *   *   *
Từng giữ chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giai đoạn 1989- 1997, hiện là thành viên Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia, TS Cao Sĩ Kiêm kể, ứng phó với giảm phát nhẹ những năm 2000- 2001, đã có lúc Nhà nước phải phát không nguyên vật liệu, kích cầu bằng cho vay hấp dẫn mới phục hồi được thị trường. Vì thế, ông cho rằng, nguy cơ giảm phát có xảy ra hay không phụ thuộc chủ yếu vào cách điều hành kinh tế của Chính phủ.
Sau khi Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tháng 10 giảm 0,19% so với tháng 9, đã xuất hiện một số ý kiến cho rằng nguy cơ giảm phát đang tới gần, và vì vậy cần nới lỏng chính sách tiền tệ (giảm lãi suất và tăng tín dụng) và kích cầu (giảm thuế hay tăng chi tiêu của Chính phủ). Tuy nhiên, nhiều chuyên gia sau khi phân tích từ cả góc độ lý thuyết lẫn thực tiễn đã nhận định: nỗi lo giảm phát ở Việt Nam hiện nay là thiếu cơ sở và khuyến nghị Chính phủ cần hết sức thận trọng trước những gợi ý chính sách xuất phát từ nỗi lo không chính đáng này.
Theo lý giải của TS Vũ Thành Tự Anh trên một bài viết trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, mặc dù CPI tháng 10 giảm nhưng CPI của 10 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 vẫn ở mức rất cao 23,15%, do đó, lạm phát mới là mối lo lớn chứ không phải là giảm phát. Hơn nữa, đóng góp trong CPI trong tháng 10, chỉ có 3 mặt hàng giảm giá (ăn và dịch vụ ăn uống, nhà ở và vật liệu xây dựng, và phương tiện đi lại, bưu điện) và giảm nhờ yếu tố khách quan, thời vụ (giá dầu thế giới giảm mạnh, vụ hè thu thắng lợi). điều này có nghĩa là sự giảm nhẹ của CPI thiếu tính bền vững. Hơn nữa, nguyên nhân chủ yếu của giảm phát là do tổng cầu sụt giảm, kéo theo suy thoái kinh tế (tốc độ tăng trưởng âm) và thất nghiệp. Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam sẽ thấy rằng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2008 ước đạt 6,5% thì tuy nền kinh tế đã tăng trưởng chậm lại nhưng chưa hề có dấu hiệu suy thoái, tức là chưa có tình trạng giảm phát.
Trao đổi với PV NĐBND Thứ Bảy bên hành lang kỳ họp QH, TS Cao Sỹ Kiêm cũng có những lập luận tương tự. Theo ông, để xác định giảm phát có 2 vấn đề: giá liên tục giảm và GDP liên tục giảm. Nếu GDP giảm sẽ dẫn đến sản xuất trì trệ, làm giảm sức mua. Mức tăng trưởng hiện tại của Việt Nam vẫn đảm bảo tạo nên việc làm, thu nhập và tiêu dùng. “Theo tôi thời điểm này vẫn chưa có vấn đề gì phải quá lo ngại về vấn đề giảm phát. Tuy nhiên cũng phải chú ý nếu để các doanh nghiệp nhỏ và vừa suy sụp, phá sản hàng loạt thì sẽ kéo theo giảm tăng trưởng rất nhanh, thậm chí xuống mức âm. Nếu mức tăng trưởng xuống âm thì lúc đó vấn đề giảm phát là nghiêm trọng. Khi đó việc chống giảm phát sẽ khó hơn nhiều so với chống lạm phát”, TS Kiêm nói.
N.T.H (tổng hợp)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét