Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2014

Peter J. Hill - Thị trường và đức hạnh


Nếu chỉ nói về khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ thì đa số người đều đồng ý rằng chủ nghĩa tư bản đã hoàn toàn thắng lợi khi so sánh với những hệ thống kinh tế khác, thí dụ như chủ nghĩa xã hội. Ngay cả như thế thì nhiều người phê phán sở hữu tư nhân và thị trường cũng muốn có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn hay ít nhất cũng là giao vào tay chính phủ nhiều quyền lực hơn. Họ biện luận rằng mặc dù chủ nghĩa tư bản hoàn thành sứ mệnh theo nghĩa vật chất, nhưng không hoàn thành sứ mệnh theo nghĩa đạo đức. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa tư bản không đáp ứng được một số tiêu chuẩn về sự công bằng.


Tiểu luận này thách thức quan điểm như thế bằng cách khảo sát một số lĩnh vực, nơi mà đức hạnh nghiêng về phía thị trường. Điều đó không có nghĩa là xã hội dựa trên thị trường tự do là xã hội đức hạnh, trong thị trường tự do người ta có thể hành động phù hợp với đạo đức hoặc phi đạo đức, như trong các hệ thống khác mà thôi. Nhưng chủ nghĩa tư bản có một số sức mạnh đạo đức mà những hệ thống kinh tế khác không có.

Mặc dù “thị trường” thường được coi là đối chọi với kế hoạch hóa tập trung hay quyền sở hữu của nhà nước đối với tư liệu sản xuất nhưng nó không phải là trật tự mang tính định chế như là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta gọi xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất là chủ nghĩa tư bản hay thị trường tự do. Các cá nhân có thể sở hữu, mua hoặc bán sở hữu (kể cả sức lao động của họ), đấy là nói nếu họ không gian lận và họ có thể làm với tài sản của mình tất cả những gì họ muốn miễn là không phương hại tới những người khác. Các cá nhân có thể trao đổi tài sản của mình với người khác, và bằng cách đó tạo ra thị trường. Quá trình trao đổi không phụ thuộc vào ai và chỉ cần một hệ thống sở hữu tư nhân rõ ràng và được tôn trọng là nó có thể tồn tại được rồi.

Đặc trưng cố hữu trong chủ nghĩa tư bản là khả năng: bảo đảm cho người ta quyền tự do lựa chọn, thúc đẩy sự hợp tác, bảo đảm trách nhiệm, tạo ra tài sản cho số đông dân chúng và hạn chế việc sử dụng bạo lực một cách quá đáng.

Quyền tự do lựa chọn

Hệ thống thị trường quan tâm rất ít tới biện pháp lí tưởng trong việc tổ chức đời sống kinh tế. Các xã hội khác có thể ra lệnh cho người ta thành lập hợp tác xã hay công xã hoặc nghề thủ công hay có thể cấm đoán những việc như thế. Nhưng hệ thống tài sản tư nhân đưa ra một loạt hình thức tổ chức khả dĩ; nếu người ta muốn hợp tác xã thì họ có thể sử dụng hình thức này; nhưng người ta cũng có thể áp dụng những hình thức tổ chức sản xuất khác, nếu muốn. Và trên thực tế, những người không muốn thị trường hoặc muốn thiết kế những định chế khác cũng hoàn toàn được tự do làm như thế.

Trong suốt chiều dài của lịch sử đã từng có những nhóm người lựa chọn cách thức hợp tác bên ngoài thị trường. Một trong những nhóm như thế là người Hutterite, họ sống trong khu vực Bình Nguyên Lớn phía Bắc của Mĩ và Canada. Họ không phải là những người theo chủ nghĩa tư bản. Trừ những vật dụng tối cần thiết đối với cá nhân, tất cả tài sản trong khu vực của người Hutterite đều là tài sản chung. Tất cả thu nhập đều được đem chia đều cho những người sống trong khu vực, lao động không được trả lương.

Người Hutterite có thể thành lập các khu vực định cư của mình mà không cần bất cứ người nào trong xã hội cho phép. Không có ủy ban, không có các cơ quan nào của chính phủ hay một nhóm những công dân có thiện ý nào phải họp lại và quyết định xem cách sống của người Hutterite có phù hợp hay không. Tự do lựa chọn phương án như thế là đặc trưng của xã hội thị trường tự do.

Ngược lại, xã hội kế hoạch hóa tập trung không bảo đảm quyền tự do cho những người muốn tham gia buôn bán trên thương trường. Xã hội này ngăn chặn buôn bán để phục vụ cho những mục tiêu khác và không nghi ngờ gì rằng nó sẽ ngăn chặn những nhóm người tương tự như người Hutterite, nếu những nhà cầm quyền không thích hình thức tổ chức của người Hutterite.

Hợp tác thay vì xung đột

Hệ thống thị trường tự do, tài sản tư nhân thường được gán cho là hệ thống cạnh tranh. Nhưng một trong những ưu điểm chủ yếu của hệ thống thị trường là nó thúc đẩy hợp tác chứ không chỉ là cạnh tranh. Cạnh tranh quả thật có tồn tại trong xã hội dựa vào thị trường, nhưng khi có sự khan hiềm thì cạnh tranh sẽ thịnh hành, xã hội nào cũng vậy cả.  

Trên thương trường, người giành được chiến thắng là người hợp tác với những người khác trong xã hội hay là làm cho những người khác được thỏa mãn. Muốn thành công trong hệ thống sở hữu tư nhân thì các cá nhân phải đưa ra “thương vụ tốt hơn” những người cạnh tranh với họ. Họ không thể ép người khác mua sản phẩm hay dịch vụ của mình. Họ phải hướng sức sáng tạo và năng lực của mình nhằm tìm ra cách thức nhằm làm cho những người khác được thỏa mãn.  Người thành công trên thương trường là người làm điều đó một cách tốt nhất. Như vậy là, những người tham gia vào nền kinh tế thị trường – cả người mua lẫn người bán – đều liên tục tìm lĩnh vực mà họ có thể thỏa thuận, có thể làm ăn với nhau chứ không phải là tập trung chú ý vào những lĩnh vực có thể gây bất hòa, chẳng mang lại lợi ích gì cho ai.

Ngược lại, trong chế độ tập thể, càng hung hăng và càng không khoan nhượng thì càng dễ được tưởng thưởng. Với cách ra quyết định tập thể, những người có vị thế chính trị vững chắc sẽ chẳng cần phải tìm sự đồng thuận; nói chung, họ có nhiều cơ hội giành chiến thắng hơn bằng cách làm mất thể diện phe đối lập khi những người này tìm cách biện hộ cho quan điểm của mình, thỏa hiệp chỉ có thể xảy ra khi đối phương cũng mạnh mà thôi.

Thí dụ điển hình của sự bất hòa do quyết định tập thể gây ra là cuộc tranh luận về việc giảng dạy về nguồn gốc của loài người. Ban giám hiệu nhà trường – đấy là nói những ban giám hiệu phải đưa ra quyết định tập thể - nói chung phải quyết định dạy hoặc là con người là do Chúa sáng tạo ra hoặc là do tiến hóa mà thành. Những quyết định như thế bao giờ cũng chứa đầy xung đột. Những người không đồng ý với quyết định của ban giám hiệu thường viết thư đến báo chí, vận động hành lang, thuê luật sư, và nói chung là rất phiền phức. Đấy là điều hầu như không thể tránh được khi dính dáng đến những vấn đề nhạy cảm như thế vì mọi quyết định mang tính tập thể, kể cả những vấn đề được đa số quyết định bằng cách bỏ phiếu, cũng có vẻ như đi ngược lại ước muốn của thiểu số. Như vậy là, những người ra quyết định đã rơi vào tình trạng không thể thắng được. Nếu ban giám hiệu cho phép dạy theo thuyết sáng tạo luận thì những người theo thuyết tiến hóa sẽ nổi giận. Nếu họ dạy theo thuyết tiến hóa thì những người theo thuyết sáng tạo luận cũng sẽ giận dữ y như thế.

Ngược lại, xin xem xét quyết định trở thành người ăn chay hay ăn mặn. Ở đây cũng có những người cảm thấy giận dữ khi bị cản trở trong vấn đề này y hệt những người bị cuốn hút vào cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người vậy. Tuy nhiên, khó có khả năng là quyết định về khẩu phần ăn có thể tạo ra một cuộc tranh cãi công khai. Khẩu phần ăn không được quyết định bởi quá trình ra quyết định tập thể cho nên người ta có thể giải quyết với nhau một cách hòa bình hơn. Người tin rằng không ăn thịt thì có lợi hơn về mặt sức khỏe hoặc đúng hơn về mặt đạo đức có thể ăn như thế mà không cần tranh luận với những người ăn mặn. Còn những người ủng hộ cho việc ăn mặn cũng có thể tìm được các nhà sản xuất hay cửa hàng sẵn sàng đáp ứng mong muốn của họ. Trên thực tế, người ăn chay và ăn mặn có thể mua ở cùng một cửa hàng, có thể đẩy xe hàng của mình đi ngang qua nhau mà không hề có xung đột nào. Chính vì không cần quyết định tập thể cho nên sự gần gũi hòa bình như thế mới có thể xảy ra được.

Sự hài hòa xã hội do thị trường đem lại phải là mối bận tâm của những người lo lắng đến những vấn đề đạo đức. Những người thuộc các nền văn hóa khác nhau, giá trị khác nhau và thế giới quan khác nhau có thể sống cùng nhau mà không hề thù oán nhau trong hệ thống thị trường và sở hữu tư nhân. Hệ thống thị trường chỉ đòi hỏi một sự đồng thuận tối thiểu về mục đích của cá nhân hay nhà-nước-xã-hội mà thôi.

Ngược lại, các chế độ khác có xu hướng ngả về những mục tiêu được quyết định từ bên trên. Mỗi chế độ như thế đều đòi hỏi phải có nhiều sự đồng thuận hơn về những điều được coi là “tốt” đối với xã hội. Hệ thống kế hoạch hóa tập trung, không dựa vào sự trao đổi tự nguyện lao động để lấy tiền lương, phải bắt các cá nhân làm việc hoặc thực hiện những mục tiêu cụ thể nào đó, những mục tiêu này có thể không phải là mục tiêu mà người lao động hay người tiêu dùng lựa chọn nếu họ được tự do. Thí dụ, ở Liên Xô người dân hầu như không có quyền tự do lựa chọn nơi làm việc và một khi đã được phân công một công việc nào đó thì rất khó chuyển đến vị trí làm việc khác.

Một nguyên nhân nữa làm cho hệ thống dựa trên quyền sở hữu tư nhân thúc đẩy sự hài hòa xã hội là nó buộc người ta phải có trách nhiệm với những gì mình làm cho người khác. Trong chế độ sở hữu tư nhân, làm người khác bị thương hoặc làm hỏng tài sản của người khác thì phải bồi thường, tòa án buộc người ta phải thực hiện trách nhiệm của mình. Nhận thức rằng làm hỏng thì phải bồi thường làm cho người ta phải thận trọng và có trách nhiệm. Khi người ta đã nhận thức được trách nhiệm của mình thì con người có quyền tự do.

Ngược lại, hệ thống kế hoạch hóa tập trung làm cho người ta thiếu trách nhiệm hơn rất nhiều. Mặc dù về mặt lí thuyết thì chính phủ có trách nhiệm bảo đảm quyền của nhân dân, nhưng quyền trong hệ thống như thế được xác định một cách mù mờ và chính phủ có thể và quả thật đã đáp ứng nguyện vọng của những kẻ có quyền lực, nhưng lại ít quan tâm tới quyền và ước muốn của những người không có quyền lực. Ngay cả trong các chế độ dân chủ, nếu chính phủ có quyền giành ưu tiên cho những nhóm người nào đó thì những nhóm có nhiều quyền lực sẽ lợi dụng chính phủ để giành lấy những thứ họ muốn. Mà những thứ họ giành được có thể rất có giá trị đối với những người bị tước đoạt.

Thế giới quan tổng bằng không và thế giới quan tổng là một số dương

Những lời chỉ trích sở hữu tư nhân thường xoay quanh việc phân phối thu nhập. Những người có thiện chí thường nghĩ rằng thật là không công bằng khi một số người sống xa hoa trong khi một số khác lại sống trong cảnh bần hàn. Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng về mặt đạo đức, những người sống sung túc phải chia sẻ với những người nghèo túng hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là chính phủ là tổ chức phù hợp với công việc tái phân phối như thế.  

Nhiều người bất bình với địa vị của người giàu vì họ đã hiểu lầm về nguồn gốc của tài sản. Họ tin rằng những người sống xa hoa là những kẻ bóc lột những người sống trong cảnh bần hàn. Nói chung đấy là quan niệm sai lầm.

Thế giới không phải là tổng bằng không. Nghĩa là tài sản trên thế giới là không giới hạn cho nên nó phải được chia cho mọi người, một số người được nhiều hơn còn một số khác thì được ít hơn.  Có thể kiếm được tài sản bằng cách lấy của người khác, nhưng người ta cũng có thể tạo được tài sản bằng hành động với động cơ đúng đắn của mình. Khi làm như thế thì tài sản chính là sự gia tăng phúc lợi cho xã hội. Sự gia tăng đáng kể tài sản tính trên đầu người kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp trước hết là do tài sản được tạo ra chứ không phải là lấy của người khác.

Khi các quyền sở hữu được xác định một cách rạch ròi và được bảo hộ thì chỉ các giao dịch mà người dân tham gia vào mới có “tổng dương” hay có thể gọi là những giao dịch tạo-ra-tài-sản, điều đó xảy ra là vì tất cả các bên tham gia giao dịch đều tin rằng kết quả là họ đã cải thiện được hoàn cảnh sống của mình. Trong xã hội, nơi mà người dân được bảo đảm quyền sở hữu tài sản của mình thì họ sẽ chỉ trao đổi tài sản trên cơ sở tự nguyện và họ sẽ chỉ làm như thế khi nhìn thấy khả năng cải thiện được hoàn cảnh của mình mà thôi. Những người giao dịch với họ cũng làm đúng như thế - họ cũng chỉ tham gia giao dịch khi nghĩ rằng kết quả là họ sẽ cải thiện được hoàn cảnh sống của mình.

Thế giới có tổng bằng không, nơi người chỉ có thể tích tụ được tài sản bằng cách lấy bớt tài sản của người khác, chỉ có thể xảy ra khi không có quyền sở hữu. Trong thế giới như thế người dân – hoặc là trở thành kẻ cắp và kẻ cướp hoặc là lợi dụng quyền lực của chính phủ - mới có thể nắm được quyền quản lí các nguồn lực mà không có quyền của người chủ các nguồn lực đó.
  
Một số nhà phê bình biện luận rằng nhiều vụ giao dịch trên thương trường không phải là tự nguyện, một số người, do hoàn cảnh bắt buộc mà phải tham gia vào những giao dịch mà họ không muốn. Thí dụ, họ biện luận rằng người sử dụng lao động bóc lột người lao động bằng cách trả cho họ mức lương thấp nhất có thể được. Nhưng trong xã hội mà người dân hành động một cách tự nguyện, không bị ai ép buộc, thì việc chấp nhận mức lương như thế có nghĩa là không còn ai trả cao hơn nữa. Trên thực tế, người sử dụng lao động là người mở rộng cơ hội cho những người kém may mắn. Thí dụ, luật qui định mức lương tối thiểu là 4 USD, trên thực tế đã làm giảm cơ hội của những người với sức lao động chỉ đáng 2 USD mà thôi.

Chính phủ chỉ có một cách – ngược lại với khu vực tư nhân, tức là khu vục hành động thông qua đóng góp một cách tự nguyện – giúp đỡ những người này bằng cách cho họ tài sản đã tước đoạt của những người khác. Nhưng sự kiện là tài sản thường được chính những chủ sở hữu tạo ra đã làm giảm đáng kể giá trị đạo đức của việc tái phân phối như thế. Một người mà bằng những cố gắng mang tính sáng tạo của mình đã làm gia tăng số tài sản của mình mà không làm suy giảm hạnh phúc của người khác dường như có đủ lí do về mặt đạo đức trong việc sở hữu số tài sản đó.

Hơn nữa, trong hệ thống sở hữu tư nhân dựa trên thị trường, tài sản của một người tăng lên chứng tỏ rằng người đó đã làm cho tài sản của những người khác tăng lên. Trong hệ thống thị trường cách duy nhất để trở thành giàu là làm cho người khác hài lòng, muốn trở thành rất giàu thì phải làm cho đám đông hài lòng. Henry Ford đã cung cấp cho quần chúng những chiếc ô tô do ông sản xuất, đáp ứng yêu cầu đi lại với giá tương đối rẻ và ông trở thành một người cực kì giàu có. Ngược lại, Henry Royce chỉ phục vụ những người có thu nhập cao bằng cách sản xuất những chiếc ô tô đắt tiền và ông không giàu bằng Henry Ford. Trừng phạt những người có hành động tương tự như Henry Ford bằng cách tước đoạt phần lớn thu nhập của người ta là vô lí.

Đáng tiếc là quan niệm sai lầm cho rằng thế giới có tổng bằng không lại là quan niệm rất thịnh hành. Nhiều người tham gia vào những cuộc thảo luận về tình trạng nghèo đói trong Thế giới thứ III tin rằng nếu các nước giàu không giàu đến như thế thì các nước nghèo sẽ giàu hơn. Mặc dù chắc chắn là một số người có tài sản là do đã cướp đoạt của một số người khác, nhưng đây không phải là hiện tượng thường gặp.  Còn nếu có những trường hợp cướp đoạt như thế thì giải pháp phải là chuyển sang chế độ thực thi việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người dân.

Nực cười là quan niệm cho rằng thế giới có tổng bằng không lại thường làm cho điều kiện sống ngày càng xấu đi.  Những người đề xướng quan niệm tổng bằng không thường ủng hộ việc tái phân bố các quyền trên diện rộng. Việc tái phân bố như thế thường khuyến khích, thực ra là đòi hỏi, tất cả mọi người cùng tham gia vào cuộc xung đột. Chiến tranh là tốn kém, dù nó có xảy ra trên chiến trường hay trong phòng họp quốc hội thì cũng vậy mà thôi. Khi chính phủ có thể phân phát đặc quyền đặc lợi thì nhiều công dân sẽ cạnh tranh với nhau để giành những đặc quyền đặc lợi đó, trong khi những người khác lại kiên trì vận động nhằm giữ cho bằng được tài sản của mình. Thường thì kết quả chung cuộc là sau khi tái phân phối, tài sản sẽ còn ít hơn là trước khi tái phân phối.

Quyền lực

Những điều bất công nghiêm trọng nhất trong lịch sử loài người đã xảy ra khi một số người có quá nhiều quyền lực đối với những người khác. Đôi khi đấy là quyền lực kinh tế, lúc khác có thể là quyền lực chính trị, nhưng dù thế nào thì khả năng kiểm soát sự lựa chọn của người khác cũng gây ra nhiều đau khổ. Những định chế nào có thể phân chia quyền lực một cách hữu hiệu nhất và ngăn chặn được một số người, không để họ có quyền lực một cách quá đáng đối với cuộc sống của những người khác?

Chỉ có thể trả lời được câu hỏi này sau khi hiểu cách thức hoạt động của thế giới. Dù các định chế có như thế nào đi nữa thì một số ngưới cũng có nhiều quyền lực hơn một số người khác. Vấn đề không phải là bộ luật nào có thể giữ không cho một số người có bất kì sự kiểm soát nào đối với những người khác mà là những định chế nào có thể ngăn chăn một cách hữu hiệu nhất việc tích tụ quyền lực.

Lịch sử đầy những thí dụ về việc lạm dụng sức mạnh cưỡng chế nằm trong tay nhà nước. Vì vậy mà ta phải thận trọng trước những định chế tạo ra sự tập trung quá nhiều quyền lực vào tay nhà nước, ngay cả khi mục tiêu rõ ràng là uốn nắn lại những sự bất công trong nền kinh tế tư nhân. Những xã hội không có quyền tư hữu thường tập trung quá nhiều quyền lực vào tay một ít người và quyền lực này thường bị lạm dụng một cách quá đáng.

Đấy là lí do để ta phải tạo ra trật tự pháp lí trong đó nhà nước buộc người ta phải tôn trọng những điều luật được xác định một cách rõ ràng nhằm nhằm ngăn chặn không chỉ một số người, không cho họ ép buộc người khác phải hi sinh mà không có sự chấp thuận của họ, nhưng đấy còn là trật tự mà nhà nước cũng bị giới hạn, theo nghĩa là những hi sinh mà nó có thể áp đặt lên các cá nhân. Xã hội, trong đó chính phủ không chỉ có trách nhiệm xác định và thực thi quyền sở hữu mà vai trò của nó còn bị giới hạn bởi chính hiến pháp, là sự kết hợp có thể tồn tại một cách lâu dài. Hệ thống như thế sẽ phân chia quyền lực và ngăn chặn, không để một số người buộc người khác phải hi sinh mà không có sự chấp thuận của họ.

Kết luận

Có nhiều lí do để lựa chọn hệ thống sở hữu tư nhân và thị trường. Hệ thống có nhiều đức hạnh hơn là hệ thống có thể buộc người ta phải chịu trách nhiệm trước các hành vi của mình và khuyến khích người ta giúp đỡ kẻ khác chứ không phải là cho phép người ta buộc người khác hi sinh mà không có sự chấp thuận của họ.

Đây không phải là khẳng định rằng hệ thống thị trường có thể thay thế cho xã hội trong đó người dân hành động trên cơ sở đức hạnh. Đức hạnh của cá nhân chắc chắn sẽ góp phần củng cố chủ nghĩa tư bản cũng như củng cố bất cứ hệ thống nào khác. Dù với thể chế nào thì tính trung thực, từ tâm và sự đồng cảm giữa người với người cũng làm cho thế giới của chúng ta trở thành dễ sống hơn. Chủ nghĩa tư bản không thù địch với những đức tính đó. Khi những hệ thống kinh tế khác được mang ra đánh giá trong khuôn khổ đức hạnh thì sẽ xuất hiện những lí lẽ vững chắc ủng hộ cho quyền tư hữu và thị trường. Thương trường và đức hạnh có thể được coi là những tác nhân bổ xung cho nhau trong việc giữ gìn xã hội công bằng.

Peter J. Hill là giáo sư kinh tế tại Wheaton College (Illinois) và cộng tác viên cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu kinh tế chính trị học (PERC) ở Bozeman, Montana.

Nguồn: http://www.thefreemanonline.org/columns/markets-and-morality/

0 nhận xét:

Đăng nhận xét