Nguồn: https://www.project-syndicate.org/commentary/declining-investment-in-rich-countries-by-jeffrey-d-sachs-2014-10
Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014
Jefffrey D. Sachs - CHIẾN LƯỢC KINH TẾ VĨ MÔ MỚI
23:29
Hoàng Phong Nhã
No comments
Nguyễn
Trung Kiên dịch
Tôi là
một nhà kinh tế vĩ mô, nhưng tôi bất đồng với hai trường phái đang gây ảnh
hưởng hàng đầu trong giới chuyên môn của tôi tại Mỹ: phái Keynes mới đang cố
gắng làm tăng tổng cầu, và phái Trọng cung đang cố gắng giảm các loại thuế. Cả
hai phái này đều đã cố gắng và đã thất bại trong nỗ lực vượt qua hiện trạng yếu
kém dai dẳng của các nền kinh tế có thu nhập cao trong những năm gần đây. Bây
giờ là lúc cần đến một chiến lược mới, trên nền tảng tăng trưởng bền vững dựa
vào đầu tư.
Thách
thức cốt lõi của kinh tế học vĩ mô là phân bổ các nguồn lực xã hội một cách tối
ưu. Người tìm việc thì phải có việc, các nhà máy nên phân bổ vốn của họ một cách
hiệu quả; và một phần thu nhập tiết kiệm được, thay vì chi tiêu hết, nên được
đầu tư để cải thiện phúc lợi trong tương lai.
Cả phái
Keynes mới và phái Trọng cung đều đã hoàn toàn sai lầm đối với thách thức thứ
ba này. Phần lớn các quốc gia có thu nhập cao: Mỹ, phần lớn châu Âu và Nhật Bản
– đều thất bại trong việc đầu tư một cách thỏa đáng hoặc thông minh cho tương
lai. Có hai cách đầu tư: đầu tư trong nước và đầu tư quốc tế - và trên quy mô
toàn thế giới thì cả hai cách này đều không đạt tới mức cần thiết.
Đầu tư
trong nước được tiến hành với nhiều hình thức, bao gồm đầu tư của doanh nghiệp
vào máy móc và nhà xưởng; đầu tư của hộ gia đình vào nhà cửa; và đầu tư của
chính phủ vào con người (giáo dục, các kỹ năng), kiến thức (nghiên cứu &
triển khai), và cơ sở hạ tầng (giao thông, năng lượng, nước sạch và phòng chống
rủi ro thiên tai).
Cách
tiếp cận của phái Keynes mới là cố gắng thúc đẩy mọi dạng thức của đầu tư trong
nước. Do đó, theo quan điểm này thì chi tiêu chỉ là chi tiêu. Vì vậy, phái
Keynes mới đã cố gắng thúc đẩy nhiều đầu tư của hộ gia đình hơn thông qua việc
hạ lãi suất xuống mức thấp nhất có thể, tăng mua ô-tô dựa trên các khoản vay
được chứng khoán hoá, và qua các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng sử dụng nhiều lao
động mới dựa trên các chương trình kích thích tăng trưởng ngắn hạn. Khi chi cho
đầu tư không tăng, họ khuyến nghị rằng chúng ta nên chuyển phần "thặng
dư" tiết kiệm sang tiêu dùng “xả láng”.
Ngược
lại, phái Trọng cung muốn thúc đẩy các khoản đầu tư cá nhân (tất nhiên là không
phải đầu tư công!) thông qua việc cắt giảm thuế nhiều hơn và giảm bớt sự điều
tiết của nhà nước. Họ đã từng thử biện pháp này nhiều lần ở Mỹ, đặc biệt là
suốt thời kỳ cầm quyền của George W. Bush. Thật không may, kết quả của sự giảm
bớt can thiệp này là tình trạng phát triển bong bóng trên thị trường bất động
sản trong ngắn hạn, chứ không phải là sự gia tăng bền vững của các khoản đầu tư
cá nhân hiệu quả.
Mặc dù
chính sách được thay đổi luân phiên giữa hai phái Trọng cung và Keynes mới,
nhưng có một thực tế dai dẳng là sự suy giảm đáng kể của chi cho đầu tư trong
thu nhập quốc dân tại phần lớn các nước có thu nhập cao trong những năm gần
đây. Theo số liệu của IMF, tổng chi tiêu cho đầu tư tại các quốc gia này đã
giảm từ 24,9% GDP vào năm 1990 xuống chỉ còn 20% vào năm 2013.
Tại Mỹ,
chi cho đầu tư đã giảm từ 23,6% GDP vào năm 1990 xuống 19,3% vào năm 2013, và
giảm đáng kể hơn nữa về giá trị tuyệt đối (tổng đầu tư trừ đi khấu hao vốn).
Tại châu Âu, tỷ lệ này đã giảm từ 24% GDP xuống còn 18,1% vào năm 2013.
Cả phái
Keynes mới và phái Trọng cung đều không tập trung vào những biện pháp khắc phục
một cách hiệu quả sự suy giảm dai dẳng trong khoản chi cho đầu tư này. Các xã
hội của chúng ta cần đầu tư nhiều hơn và cấp bách hơn, đặc biệt là đầu tư nhằm
chuyển nền sản xuất tạo ra nhiều khí thải carbon, sử dụng nhiều năng lượng và
đầy ô nhiễm, sang những nền kinh tế bền vững dựa trên việc sử dụng các nguồn
tài nguyên thiên nhiên hiệu quả hơn và các nguồn năng lượng có hàm lượng carbon
thấp. Những khoản đầu tư này đòi hỏi những bước đi mang tính hỗ trợ lẫn nhau
của cả khu vực công và tư.
Các
khoản đầu tư cần thiết bao gồm triển khai các nguồn năng lượng mặt trời và năng
lượng gió quy mô lớn, ứng dụng rộng rãi các phương tiện giao thông sử dụng
điện, cả phương tiện công cộng (xe bus và tàu hỏa) và cá nhân (ô-tô), các tòa
nhà sử dụng năng lượng hiệu quả; và các hệ thống truyền tải năng lượng để có
thể truyền dẫn năng lượng tái tạo đi xa (ví dụ, từ Biển Bắc và Bắc Phi tới châu
Âu lục địa, và từ Sa mạc Mojave ở California tới các trung tâm đông dân cư của
Mỹ).
Nhưng
đúng vào lúc các xã hội của chúng ta nên tiến hành các khoản đầu tư này, thì
các khu vực công tại Mỹ và châu Âu lại đang trải qua tình trại “thoái lui đầu
tư” thực sự. Các chính phủ, nhân danh mục tiêu cân bằng ngân sách, đang cắt
giảm đầu tư công. Còn các khu vực tư nhân không thể đầu tư một cách chắc chắn
và an toàn vào năng lượng thay thế khi mà các lưới điện được nhà nước điều
tiết, các quy tắc xác định trách nhiệm, các công thức định giá và các chính
sách năng lượng quốc gia, tất cả đều không chắc chắn và đang bị tranh cãi quyết
liệt.
Tại Mỹ,
chi cho đầu tư công đã bị giảm bớt, cả chính quyền liên bang lẫn tiểu bang đều
không có những ủy nhiệm chính trị, chiến lược tài trợ hay các kế hoạch dài hạn
để thúc đẩy đầu tư cho các thế hệ công nghệ mới thông minh và sạch hơn.
Cả phái
Keynes mới lẫn phái Trọng cung đều hiểu sai về tình trạng “tê liệt đầu tư”.
Phái Keynes mới nhìn nhận các khoản đầu tư, cả đầu tư công lẫn đầu tư cá nhân,
chỉ đơn thuần là một loại tổng cầu. Họ không chú ý tới các quyết định về chính
sách công liên quan đến các hệ thống năng lượng và cơ sở hạ tầng (cũng như các
khoản Nghiên cứu & Triển khai có định hướng để thúc đẩy các công nghệ mới),
vốn cần thiết để thúc đẩy các khoản đầu tư hướng tới sự bền vững về môi trường,
cả trong khu vực công lẫn khu vực tư nhân. Do đó, họ thúc đẩy các mánh lới (tỷ
lệ lãi suất bằng 0 và các gói kích thích nền kinh tế), hơn là gây sức ép cho
các chính sách cụ thể ở tầm quốc gia để phục hồi đầu tư một cách hiệu quả.
Đến
lượt mình, phái Trọng cung dường như làm ngơ đối với sự phụ thuộc của đầu tư cá
nhân vào các khoản đầu tư công phụ trợ, cũng như một chính sách rõ ràng cùng
với một bộ khung để điều tiết. Họ cổ vũ cho việc giảm chi tiêu chính phủ, tin
tưởng một cách ngây thơ rằng khu vực tư nhân sẽ có thể bù đắp các khoản chi
tiêu này bằng một phép màu nào đó. Nhưng, thông qua việc cắt giảm đầu tư công,
họ đang gây cản trở cho đầu tư cá nhân.
Ví dụ,
các nhà sản xuất điện tư nhân sẽ không đầu tư vào các nhà máy sản xuất năng
lượng tái tạo quy mô lớn nếu chính phủ không có các chính sách dài hạn về năng
lượng và ứng phó với biến đổi hậu, hay các kế hoạch thúc đẩy việc xây dựng các
đường truyền tải năng lượng tầm xa dành cho các nguồn năng lượng có hàm lượng
carbon thấp tới các khu vực đông dân cư.
Cũng có
lựa chọn khác là sử dụng các khoản tiết kiệm nội địa để thúc đẩy đầu tư nước
ngoài. Ví dụ như nước Mỹ cho các nền kinh tế thu nhập thấp ở châu Phi vay tiền
để mua các nhà máy điện mới do các công ty của Mỹ sản xuất. Một chính sách như
thế sẽ giúp cho tiết kiệm cá nhân của nước Mỹ được sử dụng hữu ích nhằm chiến
đấu với tình trạng nghèo đói toàn cầu, đồng thời giúp cho nền tảng công nghiệp
của Mỹ mạnh lên.
Cũng
vậy, ở đây, cả phái Keynes mới lẫn phái Trọng cung đều không nỗ lực nhiều nhằm
cải thiện các thiết chế của tài chính phát triển. Thay vì khuyên Nhật Bản và
Trung Quốc gia tăng tỷ lệ tiêu dùng của mình, các nhà kinh tế vĩ mô nên thông
minh hơn để có thể khuyến khích các nền kinh tế này sử dụng các khoản tiết kiệm
dồi dào của mình nhằm tài trợ cho các khoản đầu tư, không chỉ ở trong nước mà
còn cả ở nước ngoài.
Những
cân nhắc này là tương đối rõ cho bất cứ ai quan tâm đến nhu cầu cấp bách phải
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và sự bền vững về môi trường. Thách thức vốn
đang tạo ra nhiều áp lực, nhất của thế hệ chúng ta là chuyển đổi các hệ thống
năng lượng và cơ sở hạ tầng bẩn, dựa vào carbon sang các hệ thống sạch, thông
minh và hiệu quả cho thế kỷ XXI. Đầu tư vào nền kinh tế bền vững sẽ giúp gia
tăng nhanh chóng phúc lợi của chúng ta và giúp các khoản tiết kiệm “thừa thãi”
của chúng ta được sử dụng vào các mục đích đúng đắn.
Tuy
vậy, điều này sẽ không xảy ra một cách tự động. Chúng ta cần đến các chính sách
đầu tư công dài hạn, quy hoạch về môi trường, các lộ trình về công nghệ, các
chương trình hợp tác công-tư cho các công nghệ mới và bền vững, và hợp tác toàn
cầu quy mô lớn hơn. Những công cụ này sẽ tạo ra một bộ môn kinh tế học vĩ mô
mới, mà sức khỏe và sự thịnh vượng của chúng ta sẽ phụ thuộc vào nó.
*
Jefferey D. Sarchs, Giáo
sư về Phát triển bền vững, Giáo sư về Chính sách Y tế và quản lý, Giám đốc Viện
Trái đất tại Đại học Columbia (Mỹ), đồng thời cũng là Cố vấn đặc biệt cho Tổng
Thư ký Liên Hợp Quốc về Các mục tiêu Thiên niên kỷ. Ông là tác giả của các cuốn
sách The End of Poverty (Kết thúc đói nghèo) và Common Wealth (Sự thịnh vượng
chung).
Nguồn: https://www.project-syndicate.org/commentary/declining-investment-in-rich-countries-by-jeffrey-d-sachs-2014-10
0 nhận xét:
Đăng nhận xét