Emanuel Derman là một chuyên gia người Do Thái trong
lĩnh vực tài chính định lượng (quantitative finance hay gọi ngắn gọn là
quant). Trước khi gia nhập vào thế giới sôi động ở Wall Street vào năm
1985, ông là một nhà vật lý chuyên ngành vật lý lý thuyết. Một trong
những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông là My Life as a Quant (Cuộc đời
của một gã làm Quant), miêu tả thế giới của những người làm trong ngành
được xem là bí ẩn nhất trong thế giới tài chính. Nhằm mục đích giúp các
bạn hiểu rõ hơn về quant, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch của tác phẩm
này. Trong phần 1, tác giả Derman sẽ cho các bạn thấy mối quan hệ tưởng
chừng như không liên quan, nhưng lại rất gắn kết với nhau giữa vật lý
và tài chính.
Chương mở đầu: HAI THỨ VĂN HÓA (Promogue: Two Cultures)
Kỳ 1: Vật lý và tài chính (Physics and Finance)
Mô hình hóa thế giới
Nếu
như toán học là Nữ hoàng của Khoa học, như nhà toán học vĩ đại Karl
Friedrich Gauss đã ca ngợi vào thế kỷ 19, thì Vật lý là Vua của Vương
quốc đó. Từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19, Luật Hấp dẫn, bộ ba Định
luật về chuyển động và công trình phương trình vi phân của Newton đã mô
tả gần như hoàn hảo sự chuyển động của các vật thể trong thế giới chúng
ta và trong Hệ Mặt trời.
'Toán
học là một điều đặc biệt đến từ tinh thần của con người, một thứ mà tự
nó đề ra giá trị cho chính nó, như nghệ thuật và thi ca'
Oswald Veblen, nhà toán học người Mỹ
(Nguồn: Internet)
Vào
năm 1864, 200 năm sau thời của Newton, nhà vật lý người Scotland James
Clerk Maxwell, với những phương trình vi phân tinh tế, đã mô hình hóa
chính xác một cách đáng kinh ngạc bản chất của ánh sáng, tia X-quang và
sóng radio. Phương trình Maxwell cho chúng ta thấy, điện và từ trường,
dù là hai hiện tượng khác nhau, song lại cùng tồn tại trong một trường
điện từ thống nhất.
Chúng
ta không thể chỉ nhìn vào thế giới xung quanh và ‘viết’ ra được những
phương trình của Newton hay Maxwell. Dữ liệu không thể tự nó nói được.
Những phương trình đó là đỉnh cao trí tuệ con người, là tư duy trừu
tượng dựa trên nỗ lực suy nghĩ và cảm nhận. Sự thành công của họ xác
nhận rằng tư duy ‘thuần khiết’ và toán học là hai thứ quyền lực giúp
chúng ta khám phá bản chất của vũ trụ.
Vào
đầu thế kỷ 20, Einstein giải quyết sự mâu thuẫn giữa hai trường phái
Maxwell và Newton bằng Thuyết Tương đối Hẹp, dung hòa cơ học của Newton
vào những phương trình của Maxwell. 50 năm sau, Einstein một lần nữa
vượt Newton bằng Thuyết Tương đối Rộng, trong đó ông chỉnh sửa Luật Hấp
dẫn của Newton và miêu tả trọng lực như một con sóng lớn trong cả thời
gian và không gian. Cùng thời với Einstein còn có Bohr, Schroedinger và
Heisenberg, dựa trên nền tảng của ông, phát triển lý thuyết cơ học lượng
tử, nhằm tìm hiểu quy luật vận động của những thực thể rất nhỏ, của
phân tử, nguyên tử và những hạt nhỏ hơn cả nguyên tử.
Chính
Einstein là người đã hoàn chỉnh cách thức tư duy để khám phá quy luật
của vũ trụ. Phương pháp của ông không dựa trên quan sát và thực nghiệm,
ông cố gắng hiểu và sau đó diễn dịch lại những nguyên lý đi ngược lại
với lẽ thường của sự vật. Năm 1918, trong bài diễn văn vinh danh Max
Planck – cha đẻ của cơ học lượng tử, Einstein đã nói: ‘Không có một
logic cụ thể nào để nhìn thấy các quy luật, chỉ có cảm nhận, dựa trên
một lượng hiểu biết nhất định về kinh nghiệm, mới có thể làm được điều
đó.’
'Chúng ta không thể giải quyết một vấn đề với chính tư duy đặt ra vấn đề đó'
Albert Einstein, nhà vật lý học người Mỹ gốc Do Thái
(Nguồn: Internet)
Mục
đích tận cùng của việc tìm hiểu những quy luật khoa học trong những
lĩnh vực khác nhau là cái gì? Là tiên đoán tương lai, và kiểm soát nó.
Đa phần những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại mà loài người đang tận
hưởng, đang phụ thuộc, hay đang sợ hãi và ghét cay ghét đắng – điện
thoại đi động, mạng lưới điện, máy scan, và vũ khí hạt nhân – đều được
phát triển dựa trên những nguyên lý của vật lý như cơ học lượng tử,
thuyết điện từ, và thuyết tương đối. Và bây giờ, có những nhà vật lý đem
những thứ đó áp dụng vào một thế giới khác – tài chính.
Trong
vòng 20 năm trở lại đây, trong những định chế tài chính lớn nhỏ ở Wall
Street (Mỹ) và The City (Anh), luôn có những nhóm nhỏ các (cựu) chuyên
gia trong các ngành vật lý và toán học cố gắng áp dụng những kỹ năng của
họ vào thị trường chứng khoán.
Lúc trước, những người này được gọi là những ‘nhà khoa học’ tên lửa bởi
những người từng nhầm lẫn khoa học tên lửa là ngành khoa học tiên tiến
nhất, bậy giờ họ được gọi là ‘quants’.
Quants
thực hiện cái công việc được gọi là ‘kỹ thuật tài chính’ (financial
engineering). Theo tôi đó là một thuật ngữ ngu xuẩn, tuy nhiên hiện giờ
người ta sử dụng một thuật ngữ hay hơn là ‘tài chính định lượng’
(quantitative finance). Công việc là sự kết hợp của những mô hình vật
lý, những phương pháp toán học và kiến thức về khoa học máy tính để định
giá những các loại chứng khoán khác nhau. Tài chính định lượng, mặt tốt
của nó là đem lại cái nhìn sâu xa hơn về mối quan hệ giữa giá trị (value) và sự ngẫu nhiên (uncertainty)
và cách tiếp cận một cách khoa học để giải thích mối quan hệ đó, còn
mặt tồi tệ ư, đó món tả pí lù của các công thức toán học phức tạp dựa
trên những nhận định mơ hồ.
Trước
đây, khi tài chính định lượng chưa được xem hẳn như một ngành nghiên
cứu, một ngành khoa học thực thụ - khi tôi tham gia ngành này vào năm
1985, công việc tôi làm thậm chí không có một cái tên gọi đàng hoàng và
nó giống như những thứ người ta muốn giao cho một tên học việc trong
ngân hàng đầu tư vậy. Tuy nhiên bây giờ bạn có thể học master chuyên
ngành tài chính định lượng ở những trường nổi tiếng – Học viện Courant thuộc Đại học New York, Đại học Michigan ở Ann Arbor, Đại học Oregon ở Eugene và cả Đại học Columbia
của tôi nữa, nơi tôi làm giáo sư từ năm 2003. Các khoa thống kê và toán
của các trường kỹ thuật, các trường kinh doanh đều ‘dụ dỗ’ sinh viên
theo học những chương trình dài một hay hai năm giống như thế này, với
mức học phí 30,000 nghìn USD, họ hứa sẽ đào tạo bạn trở thành một tên
nhân viên có thể tuyển dụng được.
Ngày
nay, những gã quản lý ở Wall Street đều nhận được emails và những cú
điện thoại hỏi xin việc từ những người có học vị Tiến sĩ (PhD). Những
tạp chí chuyên ngành vật lý ngày càng đăng nhiều hơn những công trình
nghiên cứu về tài chính định lượng. Gia nhập đội ngũ các nhà vật lý và
toán học đang làm việc cho các bộ phận mang tính định lượng của các ngân
hàng là số lượng ngày càng tăng của những người sở hữu bằng PhD từ các
khoa tài chính từ các trường kinh doanh. Hai chương trình tốt nhất nước
Mỹ về ngành tài chính ở cấp độ sau đại học là trường Sloan thuộc MIT và trường Haas thuộc Đại học California, hàng năm mất khoảng vài chục sinh viên ưu tú cho thế giới của tài chính và ngân hàng.
Trường kinh doanh Sloan thuộc MIT là một trường đại học hàng đầu nước Mỹ về ngành tài chính
(Nguồn: Internet)
Một
trong những lý do giải thích tại sao dân ngành toán và lý lại đổ xô về
Wall Street trong những năm 70 là sự thu hẹp đầu tư của chính phủ trong
lĩnh vực nghiên cứu cơ bản. Trong vòng 3 thập niên trước và sau Chiến
tranh Thế giới thứ 2, việc chạy đua vũ trang đã khiến Bộ Quốc phòng Mỹ
thúc ép Quốc hội chi nhiều hơn cho việc nghiên cứu và phát triển vũ khí,
và kết quả là thu hút được nhiều nhà toán học, vật lý học theo đuổi con
đường học thuật và nghiên cứu. Tuy nhiên sau chiến tranh Việt Nam, kinh
tế Mỹ gặp khó khăn và do đó ngân sách cho nghiên cứu và phát triển cơ
bản bị thu hẹp, và kết quả đáng buồn là nhiều nhà khoa học mong muốn gắn
bó cuộc đời mình với việc nghiên cứu cơ bản đã phải trôi dạt nhiều nơi
để mưu sinh thay về làm khoa học một cách nghiêm túc. Một số khác thì
thử thách mình ở những lĩnh vực mới hơn, như năng lượng Mặt Trời hay
viễn thông.
Một số khác nữa thì bén duyên với sự sôi động của Wall Street.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 xuất phát từ thế giới Ả Rập làm cho
giá dầu và lãi suất tăng đột biến, và ngay sau đó nỗi sợ hãi lạm phát
làm giá vàng
đạt đỉnh 800$/ounce. Đột nhiên thị trường tài chính là một nơi quá mong
manh, và những công cụ an toàn như trái phiếu, đã trở nên nguy hiểm hơn
bao giờ hết. Những quy luật cũ không còn đúng nữa, việc dự báo chiều
hướng của lãi suất và cổ phiếu trở nên khó khăn hơn bao giờ hết với các
tổ chức tài chính. Quản lý và phòng vệ rủi ro là những yêu cầu bức
thiết, và kéo theo đó là sự ra đời của hàng loạt công cụ tài chính phái
sinh phức tạp hơn.
Thị trường tài chính là một nơi quá mong manh
(Nguồn: Internet)
Làm thế nào để có thể miêu tả và thấu hiểu sự biến động của giá cả?
Vật lý là một ngành khoa học quan tâm đến sự vận động, cách thức mà vạn
vật thay đổi theo thời gian. Và vì thế các nhà vật lý, các kỹ sư, các
nhà toán học, các chuyên gia xây dựng mô hình, các chuyên gia lập trình
đã dựa vào kỹ năng của họ để áp dụng vào thực tế của thị trường tài
chính. Và ở Wall Street luôn có chỗ đứng cho họ.
Posted in: Tài chính tiền tệ
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét