Thực
tế cho thấy nhiều “loại” tăng trưởng không những không đem đến cho con
người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả không
tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng phản ánh sự gia tăng thu
nhập của nền kinh tế trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm).
Đây là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng hàng đầu, có liên quan mật
thiết đến các biến số vĩ mô khác như việc làm, lạm phát, nghèo đói,… Tuy
nhiên, nếu chỉ xem xét tăng trưởng kinh tế (TTKT) trên giác độ số lượng
thu nhập tăng thêm thì chưa đủ. Thực tế cho thấy nhiều “loại” tăng
trưởng không những không đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà
trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế hệ tương lai phải
gánh chịu. Năm 1996, UNDP đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu để các quốc
gia tham khảo, đó là:
- Tăng trưởng không việc làm: Tăng trưởng không tạo ra việc làm mới.
- Tăng trưởng không lương tâm: Tăng trưởng chỉ đem lại lợi ích cho một
bộ phận nhỏ người giàu, điều kiện sống của phần đông người nghèo không
được cải thiện.
- Tăng trưởng không tiếng nói: Tăng trưởng không gắn với sự cải thiện về dân chủ.
- Tăng trưởng không gốc rễ: Tăng trưởng nhưng đạo đức xã hội bị suy thoái.
- Tăng trưởng không tương lai: Tăng trưởng nhưng huỷ hoại môi trường sống của con người.
Chính vì lẽ đó, nghiên cứu TTKT bên cạnh sự gia tăng về số lượng, còn cần và nhất thiết phải quan tâm đến khía cạnh chất lượng.
Vậy, chất lượng tăng trưởng là gì?
Chất lượng tăng trưởng phản ánh nền kinh
tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, duy trì trong một thời gian dài, gắn với
đó là quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường
và đảm bảo quyền tự do cho mỗi người.
Có thể tiếp cận chất lượng TTKT trên
nhiều giác độ khác nhau như: theo nhân tố đầu vào, theo kết quả đầu ra,
theo cấu trúc ngành kinh tế, theo năng lực cạnh tranh,… Bài viết này tập
trung nghiên cứu chất lượng TTKT theo các nhân tố đầu vào.
Trên giác độ các yếu tố đầu vào, một nền
kinh tế đạt được tăng trưởng dựa chủ yếu vào 3 nhân tố chính: vốn (K),
lao động (L) và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP - Total Factor
Productivity). Hàm sản xuất có dạng:
Y = F (K,L,TFP) , trong đó: Y là thu nhập của nền kinh tế (GDP)
Tại mô hình này, TTKT được phân thành 2
loại: TTKT theo chiều rộng, phản ánh tăng thu nhập phụ thuộc vào tăng
quy mô nguồn vốn, số lượng lao động và lượng tài nguyên thiên nhiên được
khai thác; và TTKT theo chiều sâu, đó là sự gia tăng thu nhập do tác
động của yếu tố TFP.
Trên phương diện tính toán, TFP chỉ phần
trăm tăng GDP sau khi trừ đi phần đóng góp của việc tăng số lao động và
vốn. TFP phản ánh sự gia tăng chất lượng lao động, chất lượng máy móc,
vai trò của quản lý và tổ chức sản xuất. TFP phụ thuộc hai yếu tố: tiến
bộ công nghệ và hiệu quả sử dụng vốn, lao động.
Đối với các nước đang phát triển, trong
giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hóa do các yếu tố TTKT theo chiều
rộng như lao động, tài nguyên thiên nhiên tương đối dồi dào, trong khi
trình độ của người lao động và công nghệ còn hạn chế thì TTKT theo chiều
rộng thường được lựa chọn. Song, nếu nền kinh tế phát triển dựa quá
nhiều vào vốn và lao động thì tốc độ tăng trưởng không cao, kém tính bền
vững và dễ bị tổn thương khi có những biến động kinh tế từ bên trong
cũng như bên ngoài. Nền kinh tế cũng sẽ không có những bước tiến mang
tính chất đột phá lớn. Chính vì lẽ đó, chiến lược TTKT cần được nghiên
cứu theo chiều sâu, tức là dựa chủ yếu vào nhân tố TFP.
Thực trạng chất lượng TTKT của Việt Nam
Kể từ khi thực hiện cơ chế kinh tế thị
trường mở cửa, hội nhập, Việt Nam (VN) đã đạt được những thành tựu lớn
lao về kinh tế. Giai đoạn 1991-95 tốc độ TTKT đạt trung bình 8,2%/năm;
1996-2000: 6,7%; 2001-05: 7,5%; năm 2006: 8,17%; 2007: 8,48%; 2008:
6,23%; dự kiến 2009 là 6,5%. Đây là những tốc độ tăng thuộc loại cao so
với các nước trong khu vực và thế giới trong cùng khoảng thời gian. Năm
2008, tốc độ TTKT của VN thấp hơn so với các năm trước, nhưng trong bối
cảnh nền kinh tế thế giới đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế-tài chính thì đây lại là mức tăng trưởng cao. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới (WB), năm 2009 VN có đủ cơ sở để đạt tốc độ tăng trưởng
6,5% trong bối cảnh tốc độ chung của thế giới là 0,5%. Nhờ tốc độ TTKT
cao, quy mô GDP của VN tăng lên nhanh chóng, năm 2005 đã gấp 3 lần năm
1990. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 195 USD năm 1990 lên 729 USD
năm 2006, năm 2007 đạt 820 USD. TTKT tác động tích cực đến nhiều mặt của
đời sống kinh tế xã hội. Tỷ lệ dân sống dưới mức 1 USD/ngày và 2
USD/ngày (tính theo PPP) lần lượt giảm từ 50,8% và 87,0% vào năm 1990
xuống còn 10,6% và 53,4% vào năm 2004. WB đã khẳng định tỷ lệ TTKT tăng
thêm 1% kéo theo giảm 1,3% số hộ nghèo của VN là rất ấn tượng. Ngoài ra,
các vấn đề xã hội khác như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường cũng đạt
được nhiều thành tựu mà các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế như
VN khó có thể đạt được.
Có được tốc độ tăng tưởng kinh tế cao
như vậy là nhờ VN đã huy động được lượng vốn đầu tư khá lớn. Tỷ trọng
vốn đầu tư trên GDP liên tục gia tăng, năm 1990 đạt 17,3%, hiện nay
khoảng 40-45%. Trong 10 năm 1996-06 tổng vốn đầu tư xã hội tăng trung
bình 12,7%/năm, trong đó giai đoạn 1996-2000 tăng 12,4%, giai đoạn
2001-05 tăng 13%. So với các nước trong khu vực và các nước đang phát
triển trên thế giới VN được xếp vào loại nước có tỷ trọng vốn đầu tư
trên GDP cao. Đóng góp của vốn vào tăng trưởng GDP tuy giảm trong những
năm gần đây nhưng vẫn ở vị trí chủ đạo. Nếu tính theo tỷ lệ, giai đoạn
2003 đến nay nhân tố vốn đóng góp trung bình khoảng 52,73% vào tăng
trưởng GDP. Cùng với nhân tố vốn, lao động cũng có những đóng góp không
nhỏ vào việc thúc đẩy TTKT của VN. Với kết cấu dân số trẻ, lực lượng lao
động dồi dào (khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động), hàng năm
bổ sung thêm 1,2-1,5 triệu người, lao động đã đóng góp 19,07% vào tăng
trưởng của VN.
Đóng góp của các yếu tố vào GDP (%)
|
1993 - 97 |
1998 – 02 |
2003 – nay |
Đóng góp của L |
16,02 |
20,00 |
19,07 |
Đóng góp của K |
68,98 |
57,42 |
52,73 |
Đóng góp của TFP |
15,00 |
22,58 |
28,20 |
Tỷ lệ GDP |
100 |
100 |
100 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tuy nhiên, về thực chất mô hình TTKT của
VN thời gian qua chủ yếu vẫn theo chiều rộng, mặc dù đóng góp của nhân
tố TFP có tăng dần qua các năm nhưng không đáng kể. Tỷ trọng đóng góp
của yếu tố vốn và lao động cao gấp hơn 3 lần so với của TFP. Nguyên nhân
là do:
Thứ nhất, trình
độ công nghệ hiện đang sử dụng ở VN thấp tương đối so với các nước
trong khu vực. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong Báo cáo Cạnh tranh
toàn cầu 2008-2009 đã xếp năng lực cạnh tranh của VN thứ 70 trong tổng
số 134 quốc gia, với 4,1 điểm. Riêng hệ số cạnh tranh về công nghệ, VN
xếp thứ 79, với 3,12 điểm. Trong khi đó Malaysia: 4,41 điểm; Thái Lan:
3,37 điểm; Philipines: 3,26 điểm. Trình độ công nghệ sử dụng thấp kéo
theo năng suất lao động xã hội thấp. Nếu coi năng suất lao động xã hội
của VN = 1, thì Trung Quốc = 1,73, Thái Lan = 3,63 và Singapore = 39,05.
Thứ hai, hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta trong giai đoạn đầu mở cửa khá cao,
nhưng đang có chiều hướng giảm thấp vào những năm gần đây. Hệ số ICOR
năm 2005 là 4,6, năm 2006: 5,01. Hiện nay dao động trong khoảng 4,5 đến
5,3, cao hơn so với các nước trong khu vực (Philippines: 2,3; Indonesia:
2,8; Thái Lan: 3,6). Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu
trọng tâm, trọng điểm; tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn
nhà nước vẫn còn xảy ra; công tác cải cách hành chính được thúc đẩy
nhưng còn nhiều bất cập.
Thứ ba, lao
động VN còn bộc lộ khá nhiều nhược điểm. Lực lượng lao động tuy đông về
số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo. Hiện tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề mới chỉ chiếm khoảng 25%. Thêm vào đó, tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị còn ở mức khá cao 5,3%, tỷ lệ lao động nông thôn
không sử dụng hết quỹ thời gian khoảng 19,4%.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng TTKT
Một là, thay
đổi tư duy về mô hình TTKT, TTKT cần dựa trên nền tảng coi trọng chất
lượng. Theo đó, trong dài hạn cần từ bỏ quan điểm phải đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ tăng vốn đầu tư, khai
thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động, mà chuyển dần sang mô hình
tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ.
Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Trước hết, tăng cường đầu tư
cho khoa học công nghệ nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, nâng
cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn. Cần đầu tư có trọng tâm
để tạo sự bứt phá của một số công nghệ cao có tác động tích cực đến sức
cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Khuyến khích các tổ chức nghiên
cứu khoa học tham gia trao đổi sản phẩm công nghệ trên thị trường. Nên
sử dụng FDI như là xung lực để tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy công nghệ
phát triển.
Tiếp theo, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư từ NSNN. Đổi mới công tác quản lý nhà nước về đầu tư
theo hướng loại bỏ tình trạng khép kín trong quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản, tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh. Từ đó, tăng
cường tính công khai, minh bạch và thực hiện đầu tư có hiệu quả, tránh
dàn trải. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và thực hiện quản lý
đầu tư theo quy hoạch. Khắc phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất
thoát trong đầu tư, tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm
soát, phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quy định về quản
lý đầu tư.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục tăng
cường và nâng cao hiệu quả các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước
nhằm thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân.
Chính sách khuyến khích đầu tư hiện nay
cần được hiểu và vận dụng với nội hàm rộng hơn. Nếu như trước kia,
khuyến khích đầu tư đồng nghĩa với việc Chính phủ ban hành các chính
sách ưu đãi (miễn, giảm) đối với các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
thông qua các công cụ như thuế, tín dụng, đất đai,… thì trong bối cảnh
hội nhập, các chính sách ưu đãi trên khó được áp dụng một cách riêng lẻ
do sự ràng buộc của các nguyên tắc đối xử mà VN đã ký kết với cộng đồng
quốc tế. Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng nghiêng nhiều
hơn về khía cạnh cơ chế đối xử bình đẳng trên tất cả các lĩnh vực giữa
các thành phần kinh tế (Nhà nước, ngoài Nhà nước và có vốn đầu tư nước
ngoài).
Đồng thời, tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngoài nước, cụ thể là FDI và ODA.
Đối với vốn FDI, tiếp tục cải thiện môi
trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư quốc tế nhằm
thu hút vốn, công nghệ và tạo ra nhiều việc làm mới cho lao động VN.
Trong thời gian trước mắt, nên tập trung giải quyết dứt điểm những tồn
tại mà các nhà đầu tư nước ngoài còn vướng mắc để đưa các dự án đã được
cấp giấy phép đi vào hoạt động. Chính sách đầu tư nước ngoài cần đặt mục
tiêu thu hút các công ty có tiềm năng lớn về vốn và khả năng cao trong
việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, các công ty hàng đầu trên thế
giới đầu tư vào VN.
Đối với vốn ODA, để nâng cao hiệu quả
cần phát huy vai trò làm chủ quốc gia từ khâu vận động đến khâu sử dụng
và khai thác dự án, lựa chọn những lĩnh vực phù hợp để vận động ODA, từ
đó tối đa hoá hiệu quả và tác động lan toả của các chương trình, dự án
ODA. Về công tác quản lý, nên tăng cường sự tham gia của các đối tượng
thụ hưởng ở các cấp vào quá trình chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo
dõi giám sát các chương trình, dự án để góp phần làm cho nguồn vốn này
được quản lý và sử dụng một cách công khai, minh bạch, chống được thất
thoát, lãng phí và tham nhũng.
Ba là, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố chính quyết định tốc độ và chất lượng của TTKT.
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực thực chất chính là tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Giải
pháp trước mắt đó là nâng cao trình độ văn hoá và trình độ nhận thức cho
người lao động. Phấn đấu hoàn thành chiến lược phổ cập trung học cơ sở
vào năm 2010, tiếp tục nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học, tiến tới
thực thi chiến lược phổ cập trung học phổ thông. Từng bước xây dựng và
hoàn thiện các cơ sở dạy nghề hiện có theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá. Cùng với đó, cần tiếp tục đổi mới và chuẩn hoá nội dung, chương
trình đào tạo, giáo trình của các cơ sở đào tạo để tăng tính thực tiễn,
sát với thực tế VN, theo kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới,
đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và thế giới. Chất
lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong các cơ sở đào tạo cũng
cần được nâng cao trên tất cả các mặt như phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học.
Nhà nước có chính sách thiết thực khuyến
khích các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, có trình độ quản lý
thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài để đào tạo người lao
động. Trong đó chú trọng hướng các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các
dự án thuộc các lĩnh vực: đào tạo nghề, phát triển khoa học công nghệ,
giáo dục đại học và sau đại học,… Các lĩnh vực này có khả năng tạo lợi
nhuận cao cho các nhà đầu tư, đồng thời cần phát triển nhanh để đào tạo
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH đất
nước. Bên cạnh đó, tăng cường vận động ODA cho giáo dục ở mọi cấp học,
ưu tiên cho cấp phổ cập, dành một tỷ lệ thích đáng vốn ODA (kể cả đi vay
ưu đãi) đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống trường đại học, cao đẳng, dạy
nghề ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam.
Bốn là, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần có
chính sách hình thành và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của 5 loại thị
trường cơ bản: thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị
trường vốn, thị trường khoa học - công nghệ và thị trường bất động sản.
Trong bối cảnh VN là thành viên chính thức của WTO, hệ thống văn bản
pháp luật cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhằm thực
hiện đầy đủ các cam kết của VN với quốc tế. Nghiên cứu thực hiện trước
thời hạn một số cam kết nếu thấy có cơ hội thuận lợi và việc thực hiện
đem lại lợi ích cho quốc gia. Đây chính là kinh nghiệm thành công của
Trung Quốc khi là thành viên của WTO. Bên cạnh đó, thúc đẩy mạnh mẽ tiến
trình cải cách hành chính để Chính phủ thực sự trở thành Chính phủ vì
nhân dân, vì doanh nghiệp.
TS. Nguyễn Hữu Hiểu (VIETINBANK)
Posted in: Kinh Tế
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét