Lucifer


American Dream – Giấc mơ Mỹ như lời của James Truslow Adams “Nơi đây đã có một giấc mơ Mỹ, giấc mơ về một vùng đất nơi đó cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho mỗi cá nhân, với cơ hội cho mỗi người theo khả năng hoặc thành tích của mình” . Vâng, giấc mơ Mỹ vẫn còn đó, cho những ai phấn đấu và tìm kiếm một mái ấm gia đình thật sự. Chỉ tiếc một điều rằng , những tay tài phiệt ngân hàng đã bóp méo đi một phần nào các giấc mơ ấy.


9/8/1995. Lần đầu tiên trong lịch sử sàn giao dịch Nasdaq , Netscape một công ty công nghệ thông tin đặt biệt trong lãnh vực Internet đã có một phiên “lên sàn” làm sững sốt các chuyên gia đầu tư và các nhà tư vấn từ thung lũng silicon đến tận phố Wall . Cổ phiếu của Netscape đã tăng vọt từ 28 USD lên đến 71 USD. Và cũng từ đây, cơn say cổ phiếu “dot com” được hình thành. Tạo nên một bong bóng công nghệ thông tin với sự sụp đổ vào thứ 6 – 10/3/2000. Đây chính là căn nguyên của cuộc đại suy thoái hiện tại mà chúng ta đang đối mặt.


Đáp ứng với cuộc sụp đổ của bong bóng Internet, Fed – Cục dự trữ liên bang Mỹ đã nhanh chóng cắt lãi suất liên bang từ 6.5% xuống còn 3.5% chỉ trong vòng vài tháng. Tưởng rằng cú hích này sẽ làm mọi người tĩnh giấc nồng , nhưng không may rằng biến cố 11/9/2001 lại một lần nữa giáng một đòn chí tử vào cả hệ thống chính trị lẫn nền kinh tế của nước Mỹ. Để chống chọi lại sự suy mòn kinh tế có khả năng sụp đổ , Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất một cách mạnh mẽ - xuống hẳn tới mức 1% vào tháng 7/2003. Đây là mức lãi suất thấp nhất trong vòng nữa thế kỹ qua. Và lãi suất ấy tiếp tục được giữ nguyên suốt một năm tròn.



Cũng trong khoảng thời gian này, những nỗ lực kinh tế của cựu tổng thống Bill Clinton hầu như đã bị xóa bỏ. Với sự lên ngôi của tổng thống George W. Bush. Các chính sách tài chính “xã van” đã được thông qua bằng các đạo luật cắt giảm thuế, việc làm, phúc lợi y tế vào các năm 2001, 2002 và 2003 như một nhu cầu thiết yếu để đưa nền kinh tế đang bị trì trệ đi lên. Và thế là “giấc mơ Mỹ” như được chấp cánh. Người dân đổ xô đến các ngân hàng để vay mượn chi tiêu và mua sắm bất động sản. Các công ty và tập đoàn hình thành các mối liên kết để thâu tóm hội đồng bằng những lãi vay siêu rẻ. Đây cũng là thời kì “rất năng động” của các ngân hàng. Bằng lãi suất thấp các ngân hàng ráo riết chạy đua trong việc cho vay và tài trợ tín dụng. Bằng mọi biện pháp, các công ty cho vay nợ địa ốc đã nới lõng các tiêu chuẩn bắt buộc và sáng tạo ra các phương thức kinh doanh để nâng cao doanh số và tăng thu phí.

Cuộc khủng hoảng chúng ta đang phải đối mặt rất khác xa với những cuộc suy thoái trước đây. Nó không dừng ở một khu vực nhất định, mà lan tỏa ra nhiều hướng khác trong nền kinh tế. Và tất yếu , việc gì quá đà thì sẽ bùng vỡ. Và cơn sống đầu tiên đến từ thị trường bất động sản, bằng những đồng tiền vay siêu rẽ. Người dân hăng hái mua sắm và chi tiêu hơn , và dĩ nhiên một khoản tiền lớn đã được rót vào thị trường nhà đất, kèm theo đó là các hình thức trung gian như sửa chửa, mua sắm thêm các phương tiện cho chính căn nhà của họ. Không ngừng tại đây, cơn khát mua sắm vẫn tiếp diễn và còn mạnh mẽ hơn trước, người dân tiếp tục dùng những đồng tiền rẽ để có thể sở hữu ít nhất là thêm một căn hộ thứ 2. Vấn nạn đầu cơ nhà đất bắt đầu xảy ra, giá nhà đất tăng “phi mã”. Để quên đi nỗi đau từ sự sụp đổ “Dot Com”, thị trường bất động sản trở thành tâm điểm của các luồng tiền đầu tư. Và như thế bửa tiệc nhà đất bắt đầu lên ngôi.



Già nhà đất tăng ào ạt, gần như gấp đôi vào đỉnh điểm của nó vào năm 2007. Trông đợi vào giá trị thị trường của bất động sản cao hơn lãi suất vay nợ. Người dân không ngần ngại bỏ tiền để có thể sắm thêm ít nhất vài căn nữa. Những số liệu cho thấy, nợ để sở hữu nhà đất đã tăng không thể tưởng tượng được. Năm 2007, số nợ đó ở một mức kỷ lục hơn 11 ngàn tỷ USD, vượt cả mức GDP của quốc gia. Trong khi số tiền tiết kiệm của mỗi cá nhân lại giảm xuống một cách đáng báo động.


Thay vì dùng số tiền tiết kiệm để trang trãi cho các chi phí như bảo hiểm sức khỏe, y tế. Người dân lại dùng chính số tiền này để đầu cơ vào thị trường địa ốc. Một xu hướng được hình thành, và tất nhiên những ngân hàng không bao giờ bỏ qua những cơ hội như thế này. Trước đây, khi vay nợ những người cho vay luôn phải tìm hiểu thật kỹ về lý lịch và khả năng trã nợ của con nợ. Nhưng khi bắt đầu cuộc chơi, các ngân hàng đã nhắm mắt làm ngơ. Các khoản vay dưới chuẩn càng ngày được mở rộng và gia tăng. Trong đó có những người vay nợ với một lý lịch cực kỳ “đen” cũng được cấp tín dụng, như những người vô gia cư , không nghề nghiệp, không tài sàn. Và mấu chốt chính là ở những khoản vay dưới chuẩn này. Các ngân hàng biết rằng đây sẽ là một rũi ro, và họ đã biết cách đẩy những rũi ro này sang cho các nhà đầu tư khác. Tên gọi của một loại chứng khoán “vay nợ có thế chấp” (collateralized debt obligations- CDO) được hình thành. Bằng cách tổng hợp từ hàng ngàn các khoản cho vay dưới chuẩn, các ngân hàng đưa những gói CDO này vào thị trường . Những công ty xếp hạng tín dụng bắt đầu vào cuộc, họ phân tích và xếp loại các gói CDO thành các mức cao nhất như AAA đến thấp nhất là Junk. Và chúng ta biết rằng khi xếp hạng các gói CDO ở mức AAA thì có nghĩa hầu như loại chứng khoán này không có rũi ro và ngang bằng với cả trái phiếu chính phủ. Các ngân hàng và công ty xếp hạng tín dụng đã đánh giá những gói CDO độc hại này quá thấp. Theo một bản báo cáo của NBER(cục phân tích kinh tế quốc tế) thì có đến 80% các gói CDO được đánh giá AAA tuôn vào thị trường, và tổng số tiền lên đến 180 tỷ USD cho các loại chứng khoán CDO.






Đây là một mô hình đơn giản để ta có thể thấy sự liên đới của nhiều lớp tài chính tham gia vào cuộc chơi nhà đất này. Bị hấp dẫn trước lợi nhuận thị trường và một sự đảm bảo như tên gọi “nợ có thế chấp” cùng sự đánh giá cực tốt của các hãng xếp hạng tín dụng như S&P, Fitch. Các nhà đầu tư, các quỹ hỗ tương đã xem thị trường CDO như một công cụ hái ra tiền. Từ đây , những món nợ của người Mỹ đã được đóng gói và đi chu du khắp thế giới và đến tay họ. Các ngân hàng quá thông minh trong cuộc chơi này, khi họ đẩy những gói “sarin” này ra xa tầm mà họ có thể bị ảnh hưởng.



Một biểu đồ thể hiện, cán cân giữa CDO và nợ dưới chuẩn của các “big banks”. Chúng ta sẽ tự hỏi: “Họ sở hữu nhiều như thế, họ sẽ chết là chắc”. Nhưng , có một công cụ tài chính khác không những đã giúp họ mà còn làm cho những “big banks” này giàu thêm. Công cụ đó sẽ được đề cập ở phần kế tiếp.

Và đương nhiên, chuyện gì phải đến cuối cùng cũng sẽ đến: Thời điểm sụp đổ của thị trường bất động sản vào năm 2007. Thời gian này , mọi người đều thấy rằng giá nhà quá cao để có thể đầu tư lẫn đầu cơ. Giá nhà bất đầu trì trệ vào giữa năm 2007. Khi không còn khả năng trả nợ, những người chủ nhà sẽ dùng chính căn nhà của họ ra làm vật thế chấp. Các ngân hàng và các công ty cho vay bất động sản đành phải chấp nhận những khoản thế chấp này. Nhưng có quá nhiều các khoản thế chấp như thế khiến cho thanh khoản của chính các công ty này rơi vào tình trạng khó khăn. Sự sụp đổ của thị trường bất động sản làm dấy lên một cơn lo ngại khủng hoảng sẽ xãy ra (và nó đã xãy ra). Những nhà đầu tư hoặc đầu cơ bắt đầu phải phân tích lại tất cả những mắc xích trong quả bong bóng địa óc và đơn nhiên là phải bán tống bán tháu những gói CDO . Nhưng một khi thị trường sụp đổ thì nó sẽ đi rất lẹ. Và chính điều này đã giết chết các nhà đầu tư hay đầu cơ.



Giá trị thị trường của các gói CDO này đã giảm một cách chóng mặt từ 180 tỷ chỉ còn lại chưa đến 20 tỷ vào đầu quý 2 của năm 2008.

6/8/2007 – American Home Mortgage : Một công ty cho vay địa ốc độc lập lớn nhất Hoa Kỳ. Nộp đơn phá sản sau khi đã cho thôi việc hầu hết các nhân viên vì tình trạng trì trệ nhà đất.


13/8/2007 – Goldman Sachs bơm hơn 3 tỷ USD vào một quỷ đầu tư phòng hộ đang bị cạn tín dụng để vực dậy giá trị của quỹ này.


15/8/2007 – CountryWide : Một công ty cho vay địa ốc lớn nhất Hoa Kỳ đã bổ xung 11.5 tỷ USD cung cấp cho thanh khoản để chóng chọi lại với cuộc sụp đổ địa ốc.


Câu chuyện chưa dừng hẳng trên nước Mỹ, như sơ đồ ở phía trên. Các gói CDO độc hại, không chỉ được giao dịch trên thị trường Mỹ mà nó còn lan rất rộng ra các thị trường khác như Châu Âu. Với sự dự phần từ các quỹ đầu tư của Anh Quốc và Đức.


9/2007 – IKB : Một tập đoàn cho vay của Đức đã lỗ hơn một tỷ USD vì thị trường “nợ dưới chuẩn” của Mỹ.

Cũng trong khoảng thời gian này Northern Rock : Một công ty cho vay bất động sản lớn nhất Anh Quốc đã phá sản , và đây là một cuộc chạy đua rút tiền lớn nhất trong vòng 100 năm qua ở Anh Quốc.

Khi nền kinh tế bị khủng khoảng thì những cơ sở sản xuất, những công ty sẽ loại bỏ bớt nhân viên để có thể giảm chi phí, thu hẹp sản xuất. Vì thế nhiều người dân đã bị mất việc làm, mất luôn cả nhà cửa(không trã nỗi tiền mua nhà).






Và hậu quả là quá lớn để những người dân bình thường để có thể gánh chịu. Hơn 2.6 triệu người đã bị mất việc làm , một con số cao kỷ lục suất 6 thập niên qua. Và vẫn còn tiếp tục tăng. Một bản báo cáo do chính FED(cục dữ trữ liên bang Mỹ) cho thấy số tiền trong tổng tài sản của mỗi người dân đã giảm xuống rõ rệt. Từ 125.000 USD xuống còn 96.000 USD. Các chính sách về y tế và sức khỏe tiếp tục bị hạ thấp xuống.


Một vấn đề mà có lẽ đau lòng nhất chính là tình trạng người vô gia cư. Từ năm 2007-2009 đã có hơn 1.5 triệu người đã bị tịch thu nhà cửa. Trãi dài trên 19 thành phố trên toàn nước Mỹ . Những túp lều du lịch được dựng lên làm nơi tạm trú, khi các ngân hàng đến “xiết nợ”. Tỷ lệ này tăng lên đến 12% kể từ năm 2007. Một bảng báo cáo từ trung tâm luật quốc gia cho thấy số người vô gia cư nằm ở mức 2.3 đến 3.5 triệu người trên toàn nước Mỹ. Và điều đặt biết có thể nói là chỉ trong một đêm , đã có 671,888 người bị mất nhà chỉ trong một đêm. Phân nữa số họ phải chiệu đựng dưới mưa bảo , nhà tạm trú.Có hơn 1.5 triệu trẻ em vô gia cư vào năm 2009.


Lạm phát tăng nhanh đến 5.6% vào tháng 7/2008. Khiến cho 89.402 doanh nghiệp bị phá sản vào đầu năm 2009 . Nối tiếp đó là sự “phá sản” của người dân từ 1,031,562 từ năm 2008 lên đến 1,357,565 vào năm 2009.


Và đó chính là lúc, giấc mơ Mỹ thực sự đổ vỡ trên khắp đất nước này.


Tài liệu tham khảo :


Sách :


Alan Greenspan – The Age of Turbulence

George Soros - The New Paradigm for Financial Markets : The Credit Crisis of 2008 and What It Means

Báo cáo :


The Story of the CDO Market Meltdown – Harvard College

Chronology of the Financial Crisis
Changes in Family Finances from 2007 to 2009 – FED
ECONOMIC GROWTH AND TAX RELIEF RECONCILIATION ACT OF 2001–U.S Government
The Financial Crisis: A Timeline of Events and Policy Actions – FED

Nguồn Tin :


http://www.nber.org

http://www.nationalhomeless.org/fact.../How_Many.html

http://www.huduser.org/portal/period...cjan_09/RW_vol
...
http://www.reuters.com/article/2010/...rate-idUSN0590
...
http://www.dol.gov/

http://news.bbc.co.uk/2/hi/business/7096845.stm

http://lauderinstitute.net/pdf/Chron...Financial%20Cr
...
http://inflationdata.com/inflation/i...tinflation.asp