Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014
Arvind Subramanian - Siêu cường tất yếu
(Tại sao sự khống chế của TQ là một điều chắc chắn)
Trần Ngọc Cư dịch
Đối
với con nợ, thì chủ nợ có thể giống như nhà độc tài. Những chính phủ
gặp phải vấn đề tài chính thường hướng về Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) với
thái độ van xin, và vì phải hành động theo mệnh lệnh của các chủ nợ quan
trọng, IMF thường áp đặt những điều kiện gay gắt lên họ. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á cuối thập niên 1990, Mickey Kantor, đại diện
thương mại Mỹ dưới thời Tổng thống Clinton, gọi tổ chức này là “trục gỗ
húc cửa thành” (battering ram), vì nó đã được sử dụng để mở cửa thị
trường châu Á cho hàng hóa của Mỹ. Trong cuộc khủng hoảng Kinh đào Suez
năm 1956, Mỹ đe dọa sẽ cắt nguồn tài trợ mà Vương quốc Anh đang khẩn cấp
cần đến nếu quân đội Anh không chịu rút khỏi Kinh đào Suez. Bộ trưởng
Tài chính Anh lúc bấy giờ, Harold Macmillan, người đã chủ trì những màn
thương thuyết nhục nhã cuối cùng của cuộc khủng hoảng, về sau đã nhớ lại
rằng đó là “cái thở hắt cuối cùng của một cường quốc đang suy tàn”. Ông
viết thêm, “có lẽ trong vòng 200 năm nữa Hoa Kỳ mới hiểu được chúng tôi
đã cảm nhận như thế nào”.
Phải
chăng cái ngày ấy đã đến quá nhanh, khi Trung Quốc lăm le giành lấy địa
vị siêu cường của Hoa Kỳ? Đây là một câu hỏi rất quan trọng, nhưng nó
chưa được xét đến một cách nghiêm túc tại Mỹ. Ở đó, sự cao ngạo chủ yếu
vẫn còn ngự trị tâm lý con người: sự khống chế kinh tế thế giới của Hoa
Kỳ không thể bị đe dọa nghiêm trọng vì chính Hoa Kỳ tự làm cho mình
xuống dốc. Sớm muộn gì rồi Hoa Kỳ cũng sẽ vươn dậy đối đầu với cuộc thử
thách để khỏi phải thua cuộc hoàn toàn. Trung Quốc có thể đang trên
đường trở thành một siêu cường kinh tế, và Mỹ có thể phải chia sẻ sân
khấu toàn cầu với TQ trong tương lai. Nhưng, theo lý luận này, mối đe
dọa của Trung Quốc chưa phải cận kề, chưa quá lớn, chưa đủ đa diện để có
thể đẩy Hoa Kỳ ra khỏi vị trí người cầm lái.
Cũng
với lý luận này, kinh tế gia Barry Eichengreen trong cuốn lịch sử các
trữ kim khác nhau, nhan đề Exorbitant Privilege (Đặc quyền quá đáng) mới
được xuất bản, đã kết luận rằng “Điều đáng mừng trong tình huống tồi tệ
hiện nay là, số phận đồng đôla vẫn còn nằm trong tay chúng ta, chứ
không phải trong tay của Trung Quốc”. Và vào tháng Chạp năm 2010, khi
ông từ giả Nhà Trắng trong vai trò cố vấn kinh tế quốc gia cho Tổng
thống Barack Obama, ông Larry Summers tuyên bố rằng: “Những tiên đoán về
sự suy yếu của Hoa Kỳ cũng có từ lâu, như số tuổi của nước cộng hòa
này. Nhưng chúng thể hiện một chức năng quan trọng trong việc thúc đẩy
tiến trình đổi mới, luôn luôn được đòi hỏi ở mỗi thế hệ người Mỹ. Tôi
xin thưa với quí vị rằng bao lâu mà chúng ta còn ưu tư về tương lai đất
nước, thì tương lai ấy sẽ tốt đẹp hơn. Chúng ta có nhiều thách thức.
Nhưng chúng ta cũng có một xã hội uyển chuyển, năng động, có đầu óc kinh
doanh cao nhất mà thế giới chưa bao giờ thấy”. Nói cách khác, nếu Hoa
Kỳ có thể chấn chỉnh được ngôi nhà kinh tế của mình, thì nước này có thể
chặn đứng mối đe dọa đến từ TQ.
Nhưng
những quan điểm này đã đánh giá thấp một khả năng gần như chắc chắn
rằng TQ sẽ khống chế kinh tế thế giới trong vòng 20 năm sắp tới. Và
chúng để lộ một quan niệm đơn phương, tự coi Hoa Kỳ là rốn vũ trụ: rằng
sự khống chế thế giới sẽ được định đoạt chủ yếu do hành động của Hoa Kỳ,
chứ không do hành động của TQ. Thật ra, kết quả của cuộc chạy đua này
rất có thể được hình thành bởi phía TQ.
THẾ GIỚI VÀO NĂM 2030
Nói
chung, sự khống chế kinh tế là khả năng của một quốc gia dùng các
phương tiện kinh tế để buộc các nước khác làm những điều nó muốn hoặc
ngăn chặn các nước khác làm những điều nó không muốn. Những phương tiện
ấy có thể là kích cỡ nền kinh tế của nước ấy, nền thương mại của nó,
tình trạng tài chính của nó ở trong nước và ngoài nước, sức mạnh quân sự
của nó, tính năng động công nghệ của nó, và địa vị quốc tế mà tiền tệ
của nó chiếm giữ. Cuốn sách sắp xuất bản của tôi sẽ phát triển một chỉ
số khống chế (an index of dominance) chỉ kết hợp ba yếu tố then chốt:
GDP của một nước, thương mại của nó (được đo bằng tổng số lượng hàng
xuất khẩu và lượng hàng nhập khẩu), và tầm mức nó làm một chủ nợ của thế
giới còn lại. GDP đóng một vai trò quan trọng vì nó xác định nguồn lực
tổng quát mà một nước có thể huy động để phóng chiếu quyền lực chống lại
các đối thủ tiềm tàng hay nói cách khác có thể làm theo ý mình. Thương
mại, nhất là nhập khẩu, quyết định độ mạnh của đòn bẫy mà một nước có
thể vận dụng do việc cho phép hay từ chối các nước khác tiếp cận thị
trường của mình. Và việc đóng vai một nhà tài trợ hàng đầu sẽ tạo được
ảnh hưởng phi thường lên các nước khác đang cần ngân quĩ, nhất là trong
các giai đoạn khủng hoảng. Không có thước đo nào nói lên sức mạnh khống
chế rõ ràng như ba yếu tố kể trên: các sức mạnh khác phần lớn bắt nguồn
từ đó (sức mạnh quân sự, chẳng hạn, tùy thuộc vào tình trạng tổng quát
và kích cỡ của một nền kinh tế trong dài hạn), hoặc chỉ có giá trị ngoại
biên (như sự khống chế tiền tệ), hoặc khó đo lường một cách nhất quán
khi so sánh các quốc gia (như sức mạnh ngân sách).
Tôi
đã tính toán chỉ số [mô tả sức mạnh khống chế] này bằng cách đi ngược
dòng lịch sử đến năm 1870 (chỉ tập trung vào địa vị kinh tế của Hoa Kỳ
và Vương quốc Anh lúc bấy giờ) và phóng chiếu chỉ số này đến năm 2030
(chỉ tập trung vào địa vị kinh tế của Hoa Kỳ và TQ vào thời điểm đó).
Những dự phóng này chủ yếu dựa vào những giả định tương đối dè dặt về
mức tăng trưởng trong tương lai của TQ, nghĩa là nhìn nhận rằng TQ đang
đối mặt với nhiều thử thách ở phía trước. Trước hết, dân số TQ sẽ bắt
đầu già nua trong vòng một thập kỷ tới. Và kinh tế TQ đang bị méo mó
nghiêm trọng dưới nhiều khía cạnh: tiền vốn cho vay với lãi suất quá rẻ
(overly cheap capital) đã dẫn đến việc đầu tư quá lố; hối suất đồng nhân
dân tệ bị kìm giữ ở mức quá thấp đã dẫn đến sự phát triển quá mức về
hàng xuất khẩu; và năng lượng được bao cấp đã dẫn đến sự sử dụng thiếu
hiệu quả và ô nhiễm môi trường. Việc điều chỉnh những lạm dụng này nhất
định sẽ tạo ra những trục trặc rất tốn kém. Tính luôn cả những tốn kém
này, tôi dự đoán rằng mức tăng trưởng của Trung Quốc sẽ chậm lại một
cách đáng kể: trung bình 7% mỗi năm trong vòng 20 năm tới, so với khoảng
11% mà TQ đạt được trong thập kỷ vừa qua. Lịch sử cho biết rằng nhiều
nền kinh tế -- như Đức, Nhật Bản, Singapore, Nam Hàn, và Đài Loan – đã
tăng trưởng theo nhịp độ mà tôi dự đoán cho TQ sau khi họ đạt được một
mức phát triển như hiện nay của TQ. Trong khi đó, tôi giả định rằng kinh
tế Mỹ sẽ tăng trưởng khoảng 2,5% mỗi năm, như trong 30 năm qua. Dự đoán
này là hơi lạc quan so với dự đoán mới nhất là 2,2% của Phòng Ngân sách
Quốc hội (CBO) về mức tăng trưởng dài hạn, một dự đoán mà CBO thỉnh
thoảng phải hạ thấp vì tác động tiêu cực lên nền kinh tế Hoa Kỳ do các
núi nợ, công cũng như tư, ngày một chồng chất và con số thất nghiệp vừa
cao vừa kéo dài.
Kết
quả sau cùng trong sự phân tích của tôi là, vào năm 2030 sự suy yếu
tương đối của Hoa Kỳ sẽ không tạo ra một thế giới đa cực (multipolar)
nhưng là một thế giới gần như đơn cực (near-unipolar) bị TQ khống chế.
Sức mạnh kinh tế của TQ sẽ chiếm gần 20% GDP toàn cầu (một nửa đo bằng
trị giá đôla và một nửa bằng sức mua thực sự), so với Hoa Kỳ lúc đó chỉ
chiếm 15%. Vào thời điểm đó, GDP bình quân đầu người của TQ sẽ vào
khoảng 33.000 đôla, hay khoảng một nửa GDP đầu người của Mỹ. Nói thế
khác, Trung Quốc sẽ không còn nghèo tả tơi (dirt poor), như người ta
thường lầm tưởng. Hơn nữa, TQ sẽ tạo ra 15% mậu dịch thế giới -- gấp đôi
Mỹ. Khoảng năm 2030, TQ sẽ ở vị trí khống chế dù cho người ta có nghĩ
GDP là quan trọng hơn thương mại hay ngược lại; TQ sẽ vẫn dẫn đầu trong
cả hai lãnh vực.
Theo
chỉ số và những dự đoán này, sự khống chế của TQ là khá gần kề. Mặc dù
hiện nay GDP của Hoa Kỳ vẫn còn lớn hơn GDP của TQ và sức mạnh mậu dịch
của hai quốc gia là gần ngang nhau, nhưng Hoa Kỳ là một con nợ rất lớn
và có nhiều nhược điểm -- Hoa Kỳ ngốn hết khoảng 50% vốn luân lưu của
thế giới – trong khi TQ là một chủ nợ quan trọng đối với thế giới. Năm
2010, sự vượt trỗi của Hoa Kỳ đối với TQ là không đáng kể: sự khác biệt
chưa tới 1% giữa chỉ số khống chế (indices of dominance) của hai quốc
gia. Thật ra, nếu người ta cân nhắc những yếu tố này một cách hơi khác
hơn, bằng cách coi nhẹ kích cỡ của nền kinh tế so với sức mạnh mậu dịch
một chút, thì Trung Quốc đã đứng trước Hoa Kỳ vào năm 2010.
Sự
khống chế của TQ trong tương lai cũng sẽ được nhìn nhận trong nhiều
lãnh vực hơn hiện nay. Kinh tế TQ sẽ lớn hơn kinh tế Hoa Kỳ và lớn hơn
kinh tế của bất cứ quốc gia nào khác; ngoài ra, thương mại và nguồn vốn
của TQ cũng sẽ to lớn như thế. Đồng nhân dân tệ cũng sẽ là một đối thủ
đáng nể của đồng đôla trong địa vị một trữ kim hàng đầu của thế giới.
Ngoài
ra, khoảng cách giữa TQ và Hoa Kỳ sẽ mở rộng hơn dự kiến. Năm 2010, Hội
đồng Tình báo Quốc gia Mỹ tiên đoán rằng vào năm 2025, “Hoa Kỳ vẫn còn
là một siêu cường, nhưng sự khống chế của Hoa Kỳ sẽ bị suy giảm hơn
nhiều”. Đánh giá này là lạc quan không hợp lý. Những dự đoán của tôi cho
thấy rằng khoảng cách giữa TQ và Hoa Kỳ vào năm 2030 sẽ tương tự như
khoảng cách giữa Hoa Kỳ và các đối thủ của nó giữa thập niên 1970, thời
cao điểm của bá quyền Mỹ, và lớn hơn khoảng cách giữa Vương quốc Anh và
các đối thủ của trong thời cao điểm của Đế quốc Anh, vào năm 1870. Tóm
lại, việc TQ khống chế kinh tế tương lai là cận kề hơn và sẽ là vừa to
lớn vừa đa diện hơn nhiều người đang nghĩ.
MẠNH NHƯ MỘT CON BÒ MỘNG
Martin
Wolf, cây viết chuyên đề trên tờ Financial Times (Tài chính thời báo)
đã dùng từ “siêu cường nóng vội” (premature superpower) để mô tả khả
năng độc đáo của TQ trong việc vận dụng quyền lực mặc dù đang còn là một
nước nghèo. Tuy nhiên, theo dự đoán của tôi, vào năm 2030, TQ sẽ không
còn nghèo như thế. Trái lại, GDP đầu người của TQ (dựa vào sức mua nội
địa) sẽ lớn hơn một nửa GDP đầu người của Hoa Kỳ và lớn hơn GDP đầu
người bình quân trên thế giới. Tuy nhiên, sự khống chế kinh tế của TQ sẽ
không có tính thuần nhất: khác với quá khứ, trong khi các siêu cường –
Vương quốc Anh và Hoa Kỳ -- là rất giàu có so với các địch thủ của mình,
thì TQ sẽ là một quốc gia có lợi tức trung lưu hay trên trung lưu. Và
câu hỏi đặt ra là, liệu một nước có thể trở thành siêu cường thậm chí cả
khi nó không phải là quốc gia giàu có nhất hay không?
Có
ba lý do khả tín để cho rằng nó không thể trở thành siêu cường. Một là,
một nước tương đối nghèo có thể phải đặt tham vọng phóng chiếu quyền
lực quốc tế của mình nằm dưới nhu cầu giải quyết các thách thức bức
thiết hơn ở trong nước, như phải đạt mức sống cao hơn và ổn định xã hội
rộng lớn hơn. Hai là, nước đó có thể không đủ sức huy động nguồn lực cần
thiết để phóng chiếu quyền lực của mình ra nước ngoài. Chỉ nội một điều
là, phương tiện quân sự cũng cần đến tài chính, và các nước nghèo
thường gặp nhiều khó khăn hơn các nước giàu khi bắt người dân đóng thuế.
Ba là, một nước nghèo không thể có nhiều ảnh hưởng ở nước ngoài nếu nó
không có được quyền lực mềm trong tay, như chế độ dân chủ, xã hội cởi
mở, hay những giá trị đa nguyên. Quyền lãnh đạo đi kèm với sức mạnh
khống chế chỉ tồn tại khi nào nó còn tạo được động lực cho người theo:
chỉ có những ai làm biểu tượng cho một cái gì có sức thu hút rộng lớn
hay gần như phổ quát mới gây được cảm hứng. Tương tự như thế, chỉ một
nước giàu -- một nước đang nắm lợi thế kinh tế và công nghệ -- mới có
thể làm một nguồn ban phát tư tưởng, công nghệ, các định chế, và các lề
lối cho nhiều nước khác.
Như
vậy, dù khả năng khống chế không luôn luôn đi liền với sự nghèo khó,
một quốc gia vẫn có thể trở thành siêu cường mặc dù nó không thuộc vào
những nước giàu có nhất. Thậm chí một nước có lợi tức trung bình, một
nước mà Trung Quốc có khả năng trở thành vào năm 2030, có thể giữ đoàn
kết nội bộ, huy động được nguồn lực cho những mục đích đối ngoại (như
các chi phí quân sự), và nắm được một số lý tưởng dân tộc đủ sức kích
động. Thật vậy, dù với GDP đầu người tương đối thấp như hiện nay, TQ đã
có sức mạnh khống chế trên nhiều phương diện. TQ đã thuyết phục được
nhiều nước chủ nhà tại châu Phi, những nơi mà TQ đã bỏ ra rất nhiều tiền
để đầu tư, đóng cửa các đại sứ quán Đài Loan. Với trữ lượng ngoại tệ
gồm 3.000 tỉ đôla, TQ đưa ra đề nghị mua lại nợ của Hy Lạp, Ái Nhĩ Lan,
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha nhằm chặn đứng hoặc giảm bớt tình trạng hỗn
loạn tài chính tại châu Âu. (Trong dịp chủ tịch nước của Trung Quốc đến
thăm vào tháng Tư, Thủ tướng Tây Ban Nha, Ông José Luis Rodríguez
Zapatero đã nói “Trung Quốc là người bạn tốt nhất của Tây Ban Nha.”)
Trung Quốc cũng sử dụng vai vế to lớn của mình để thắt chặt các quan hệ
thương mại và tài chính tại châu Á và châu Mỹ La-tinh: chẳng hạn, nhiều
thương vụ giữa một số quốc gia trong hai khu vực nói trên hiện nay có
thể thanh toán bằng đồng nhân dân tệ.
Trước
hết, chính sách hối suất của TQ đã ảnh hưởng bất lợi cho các nền kinh
tế khắp thế giới, gây tổn thương cho các nước đang phát triển cũng như
cho bản thân Hoa Kỳ: bằng cách kìm giá đồng nhân dân tệ ở mức quá rẻ, TQ
có thể làm cho hàng xuất khẩu của mình có sức cạnh tranh hơn hàng xuất
khẩu từ các nước như Bangladesh, Ấn Độ, Mê-hi-cô và Việt Nam. Nhưng các
nước này cho đến nay vẫn khoanh tay đứng bên lề, để cho Washington một
mình tiến hành cuộc thánh chiến chống Bắc Kinh – và do đó, Hoa Kỳ không
mấy thành công. Trong khi đó, TQ đủ sức mua chuộc phe chống đối tỉ giá
hối suất của TQ. Mặc dù nhiều nước lấy làm bất mãn vì thấy sức cạnh
tranh của mình bị phá họai bởi một đồng nhân dân tệ bị kìm giá, họ vẫn
giữ thái độ im lặng, hoặc vì khiếp sợ trước cơ bắp chính trị của TQ hoặc
vì TQ cống hiến cho họ sự hỗ trợ tài chính hay cơ hội mua bán. Thậm chí
trong phạm vi nước Mỹ, ít có nhóm nào thực sự lên tiếng chỉ trích chính
sách hối đoái của TQ. TQ là một thị trường rộng lớn cho các công ty Hoa
Kỳ, và vì vậy, chính cánh tả tự do (the liberal left) chứ không phải
những người nắm giữ vốn của Hoa Kỳ đã lên án chính sách hối đoái của TQ,
vì quyền lợi của công nhân Mỹ.
Cho
dù trong tương lai rất gần TQ không thể huy động loại hình khống chế có
thể tự động thúc đẩy hay xây dựng những hệ thống và cơ chế quốc tế như
những tổ chức Hoa Kỳ đã tạo ra sau Thế chiến II, nhưng Bắc Kinh đang sử
dụng những hình thức khống chế khác. Chẳng hạn, TQ có thể đòi hỏi các
công ty Mỹ và châu Âu chia sẻ công nghệ của họ với các công ty TQ trước
khi cho phép họ tiếp cận thị trường TQ. Và TQ có thể theo đuổi các chính
sách có hậu quả sâu rộng [mang tính hệ thống], bất chấp sự chống đối
của nhiều nước trên thế giới. Chính sách hạ giá hối suất đồng nhân dân
tệ là một chiến lược cổ điển gây phương hại cho các đối tác thương mại
và làm lợi cho TQ, một chính sách phá hoại tính thông thoáng (openness)
của các hệ thống thương mại và tài chính thế giới đồng thời cũng tạo các
điều kiện tiếp cận tiền mặt quá dễ dàng (easy liquidity), một hiện
tượng đóng góp cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần đây.
CHẾT ĐUỐI VÌ NHỮNG CON SỐ
Hoa
Kỳ có thể đảo ngược xu thế này không? Tương lai kinh tế Mỹ gợi lên
nhiều nỗi lo âu: nước này đang kinh qua vấn đề ngân sách, vấn đề tăng
trưởng kinh tế, và, có lẽ bất trị hơn tất cả, vấn đề của giai cấp trung
lưu. Những đợt giảm thuế liên tục và hai cuộc chiến tranh, cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính 2008-10, tình trạng gia tăng không ngừng các
quyền lợi an sinh của người già-người nghèo (đặc biệt liên quan đến y
tế), và sự gia tăng số tài sản xấu [như nhà bị tịch biên] mà cuối cùng
chính phủ có thể phải đứng ra gánh vác -- tất cả những điều này đã tạo
ra nghi vấn nghiêm trọng về khả năng quân bình ngân sách trong khu vực
công của Hoa Kỳ. Nợ công, nợ tư, và nạn thất nghiệp lâu dài sẽ kềm hãm
mức tăng trưởng lâu dài. Và một sự kết hợp bao gồm các yếu tố như mức
thu nhập đình trệ của giới trung lưu, cách biệt giàu nghèo ngày càng
lớn, khả năng thăng tiến xã hội bị thoái hóa, và, gần đây, các viễn ảnh
tương lai sa sút đối với cả thành phần có giáo dục đại học đã tạo ra
những vấn đề to lớn về phân phối lợi tức. Giới trung lưu Mỹ cảm thấy
đang bị vây khốn: họ không muốn phải tuột thang kỹ năng, nhưng viễn ảnh
thăng tiến của họ ngày một bị hạn chế vì sự cạnh tranh đến từ TQ và Ấn
Độ.
Sức
mạnh liên tục của Hoa Kỳ phát xuất từ thái độ dám làm (can-do attitude)
trong việc chỉnh sửa các vấn đề kinh tế và từ niềm tin tưởng rằng các
yếu tố kinh tế cơ bản lành mạnh có thể đảm bảo sức khống chế lâu dài của
nền kinh tế Mỹ. Đáng lưu ý nhất là, Hoa Kỳ có đủ khả năng tạo các cơ
hội cho giới doanh nghiệp mà các nước khác không có đựợc (unique
opportunities for entrepreurship) “Hoa Kỳ có một văn hóa doanh nghiệp
thuận lợi, công nghiệp đầu tư già dặn nhất nhằm giúp vốn cho các công ty
mới mẻ, quan hệ chặt chẽ giữa các đại học và công nghiệp, và một chính
sách nhập cư cởi mở”, theo Tổ chức Theo dõi Doanh nghiệp Toàn cầu
(Global Entrepreurship Monitor, GEM), một tổ chức học thuật chuyên
nghiên cứu sinh hoạt kinh doanh toàn cầu. Trong một bản thăm dò năm
2009, GEM đã xếp Hoa Kỳ đứng đầu thế giới trong việc cung ứng những cơ
hội như thế. Gần như tất cả các công ty thương mại thành công quan trọng
nhờ những phát kiến công nghệ trong ba thập kỷ qua – Apple và
Microsoft, Google và Facebook -- đều được thành lập và đặt bản doanh tại
Hoa Kỳ. Thật vậy, chính nhờ tìm ra được những nguồn tạo sự tăng trưởng
mới mẻ và năng động trong thập niên 1990 mà Hoa Kỳ đã có thể ngăn chặn
thách thức kinh tế do một cường quốc đang trỗi dậy của thời đại đó, tức
Nhật Bản. Ngày nay, những người lạc quan lý luận rằng Hoa Kỳ có thể lặp
lại kinh nghiệm đó với TQ. Thật vậy, nếu kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng đều
đặn ở tỉ lệ 3.5% trong vòng 20 năm tới, như đã diễn ra vào thập niên
1990, tinh thần của người đầu tư và sự tin tưởng đặt vào đồng đôla như
một trữ kim có thể sẽ được nâng cao.
Nhưng
ngày nay, một số khác biệt then chốt chắc chắn đã giảm bớt niềm hi vọng
đó. Hoa Kỳ bước vào thập niên 1990 với số công trái (government debt)
nhỏ hơn rất nhiều so với số nợ nước này sẽ mắc trong tương lai. Năm
1990, tỉ lệ công trái so với GDP là vào khoảng 42%, trong khi con số mới
nhất mà Văn phòng Ngân sách Quốc hội (COB) dự đoán cho năm 2020 là gần
100%. Hai thập niên về trước, tư thế đối ngoại của Hoa Kỳ cũng ít có
nhược điểm như bây giờ. Chẳng hạn, trong năm 1990, nước ngoài chỉ cầm
giữ 19% số trái phiếu của chính phủ Hoa Kỳ; ngày nay con số đó đã lên
gần 50%, và phần lớn nằm trong tay TQ. Mãi cho đến thập niên 1990, Hoa
Kỳ vẫn chưa mấy bận tâm về cái ngày phải lo lắng những chi phí cho quyền
lợi của các nhóm đặc biệt (entitlements) như người già, người nghèo.
Và
hiện nay, giới trung lưu Mỹ đang bị nhiều vấn đề vây bủa. Trong 20 năm
qua, nhiều căn bệnh kinh tế có khả năng bóp nghẹt giới trung lưu Mỹ, như
mức thu nhập trung bình bị đình trệ, đã trở nên trầm kha và bất trị hơn
xưa. Thậm chí cả tỉ lệ tăng trưởng 3,5%, một tỷ lệ vượt quá những mong
đợi hiện nay, có lẽ cũng không đủ sức duy trì sự tin tưởng vào mô hình
Mỹ, một mô hình đặt cơ sở trên niềm hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn
cho đại đa số.
Nói
cách khác, Hoa Kỳ không thể tránh cái lô-gíc không lay chuyển của dân
số học và sự kiện là các nước nghèo, nhất là TQ, sắp bắt kịp Hoa Kỳ. TQ,
có dân số đông gấp 4 lần Hoa Kỳ, sẽ là một nền kinh tế lớn hơn ngay sau
khi mức sống trung bình của người dân TQ (tính theo GDP đầu người) vượt
quá 1/4 mức sống trung bình của người Mỹ. Bằng một số cách đo lường, kể
cả cách của tôi, sự kiện này đã bắt đầu diễn ra, và nếu kinh tế TQ vẫn
tiếp tục tăng trưởng, thì khoảng cách giữa TQ và Hoa Kỳ sẽ chỉ nới rộng
ra mà thôi. Một Hoa Kỳ cố vùng lên có thể sẽ trì hoãn tiến trình ấy,
nhưng sẽ không thể chặn đứng được nó. Phải tăng trưởng 3,5%, thay vì
2,5% như hiện nay, trong 20 năm tới, may ra Hoa Kỳ mới có thể đẩy mạnh
thành tích kinh tế, ổn định xã hội, và nâng cao tinh thần quốc gia.
Nhưng khả năng này cũng không thay đổi đáng kể địa vị của Hoa Kỳ đối với
TQ nếu nước này duy trì mức tăng trưởng chừng 7%.
Những
dự đoán này làm lung lay quan niệm chính yếu cho rằng sức mạnh siêu
cường kinh tế Mỹ tự nó thoái hóa [chứ không do sứ ép từ ngoài]. Thật ra,
chính những hành động của TQ sẽ định đoạt phần lớn sự cách biệt lớn hay
nhỏ giữa mức tăng trưởng kinh tế của TQ và Hoa Kỳ. Chẳng hạn, TQ có thể
thất bại ghê gớm nếu cứ tiếp tục để cho các bong bóng địa ốc căng to
hay nếu không ngăn chặn được các biến động chính trị. Hoặc TQ có thể
vươn lên mạnh mẽ hơn bằng cách chỉnh sửa các lệch lạc kinh tế hiện nay,
nhất là cần phải tránh xa chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất
khẩu và tiến tới một chiến lược phát triển nhu cầu trong nước. Phạm vi
hoạt động của Hoa Kỳ là hạn hẹp hơn nhiều. Nếu Hoa Kỳ không thể tăng
trưởng chậm hơn 2,0-2,5% một cách đáng kể, thì nó lại càng không thể
tăng trưởng nhanh hơn 3,5%. Đây là điều không may của một nước đang đứng
ở biên cương cuối cùng trong tiến trình phát triển kinh tế: cả tiểm
năng đi lên lẫn tiềm năng đi xuống đều bị giới hạn.
Dù
Hoa Kỳ có tăng trưởng nhanh chăng nữa -- chẳng hạn, 3,5 % -- thì những
nước khác, như TQ, cũng có thể tăng trưởng nhanh hơn, khiến bức tranh cơ
bản về tương quan lực lượng kinh tế không thay đổi. Thật vậy, khi tốc
độ cải tiến công nghệ trong những nước tiên tiến, như Hoa Kỳ, tăng
nhanh, thì những công nghệ mới của họ cũng nhanh chóng rơi vào tay những
nước nghèo, giúp kích thích sự tăng trưởng kinh tế ở đó. Thậm chí quan
trọng hơn cả việc tạo ra các công nghệ mới, đó là khả năng nắm giữ vốn
nhân lực (human capital) và những kỹ năng để sử dụng những công nghệ đó.
Theo Sáng hội Khoa học Quốc gia (National Science Foundation), vào năm
2006 số sinh viên theo học bốn năm đầu đại học khoa học tại TQ gần gấp
đôi tại Hoa Kỳ. Sự cách biệt này chỉ có thể trở nên lớn hơn mà thôi. Mặc
dù TQ có một hệ thống giáo dục tồi dở hơn Hoa Kỳ rất xa, nhưng TQ lại
tỏ ra rất sẵn sàng hấp thụ công nghệ mới. Vào năm 2002 số tạp chí khoa
học đăng bài có sự duyệt xét của chuyên gia cùng ngành (peer-reviewed
scientific publications) tại Hoa Kỳ nhiều gấp TQ 6 lần – nhưng vào năm
2008 con số này chỉ còn 2,5 lần. Khả năng dẫn đầu mức tăng trưởng kinh
tế của các nước giàu bị hạn chế từ bên trong vì TQ có thể hấp thụ và sử
dụng công nghệ mới khôn khéo hơn. Sự tinh vi của công nghệ TQ đang gia
tăng: Rất ít có sản phẩm nào Hoa Kỳ, châu Âu, và Nhật Bản xuất khẩu mà
TQ không xuất khẩu được. Nói chung, nếu mức tăng trưởng của Hoa Kỳ bị
chậm lại, thì mức tăng trưởng của TQ có thể không bị ảnh hưởng, nhưng
nếu mức tăng trưởng của Hoa Kỳ tăng nhanh, thì mức tăng trưởng của TQ
cũng có thể sẽ tăng nhanh. Bằng cách nào thì Hoa Kỳ cũng không thể bỏ xa
TQ.
TRỞ LẠI BÀI HỌC KINH ĐÀO SUEZ
Thậm
chí một Hoa Kỳ vươn dậy trở lại cũng không thể sử dụng quyền lực và sức
khống chế của mình đối với TQ. TQ đã đủ sức để làm những điều mà phần
còn lại của thế giới không muốn nó làm. Liệu chẳng bao lâu nữa TQ có đủ
sức buộc Hoa Kỳ phải làm cả những điều mà Hoa Kỳ không muốn làm hay
không? Liệu một vụ Kinh đào Suez khác có thể xảy ra hay không?
Năm
1956, trong khi đồng sterling (Anh kim) chịu sức ép nặng nề vì Ai Cập
phong tỏa Kinh đào Suez, Vương quốc Anh quay sang Hoa Kỳ để xin hỗ trợ
tài chính, dựa vào “tình hữu nghị đặc biệt” của hai nước. Nhưng Tổng
thống Mỹ Dwight Eisenhower đã từ chối. Ông giận dữ vì Anh (và Pháp) đã
tấn công Ai Cập sau khi Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser quốc hữu
hóa Kinh đào Suez, đúng vào thời điểm Eisenhower đang vận động tái tranh
cử với danh nghĩa một con người hòa bình đã chấm dứt cuộc chiến trên
Bán đảo Triều Tiên. Ông đòi Vương quốc Anh phải tuân theo một nghị quyết
LHQ do Mỹ bảo trợ buộc quân Anh phải rút khỏi Ai Cập tức khắc và vô
điều kiện. Nếu Anh không chịu rút quân, Washington sẽ không cho phép
Vương quốc Anh tiếp cận các nguồn lực tài chính từ IMF. Nhưng nếu chính
phủ Anh chịu rút quân, họ sẽ nhận được sự trợ giúp tài chính quan trọng.
Vương quốc Anh đồng ý, và Hoa Kỳ đã hậu thuẫn cho một gói tài trợ to
lớn, gồm một khoản cho vay chưa từng có từ IMF đáng giá 1,3 tỉ đôla và
một khoản 500 triệu đôla từ Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Hoa Kỳ.
Bây
giờ, ta cứ tưởng tượng một tương lai không xa trong đó Hoa Kỳ đã phục
hồi từ cuộc khủng hoảng 2008-2010 nhưng vẫn còn chồng chất nhiều vấn đề
kinh tế từ trong cơ cấu: khoảng cách thu nhập (giàu nghèo) ngày càng
lớn, một tầng lớp trung lưu chịu nhiều sức ép, và cơ hội thăng tiến kinh
tế và xã hội bị suy giảm. Hệ thống tài chính Mỹ vẫn còn mong manh như
thời trước khủng hoảng, và chính phủ chưa đối phó được những chi phí
ngày càng lớn cho người già - người nghèo và sự gia tăng số tài sản xấu
trong hệ thống tài chính, mà chính phủ có thể phải tiếp quản. Nạn lạm
phát là một vấn đề toàn cầu vì giá thương phẩm tăng vọt do sự tăng
trưởng nhanh chóng tại các thị trường mới nổi (emerging markets). TQ có
một nền kinh tế và một luồng mậu dịch lớn gấp đôi Hoa Kỳ. Đồng đôla mất
hết vẻ hào nhoáng của nó; mức cầu của đồng nhân dân tệ như một trữ kim
ngày càng gia tăng.
Cũng
rất giống như năm 1956, khi Washington bị tình nghi là đã đạo diễn các
cuộc bán tháo đồng sterling tại New York để buộc chính phủ Anh rút quân
khỏi Kinh đào Suez, tin đồn đoán loan truyền khắp nơi là TQ có kế hoạch
sử dụng sức mạnh tài chính của mình; TQ không còn chịu đựng thêm nữa sự
hiện diện của hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương. Bắc Kinh bắt đầu bán một
phần trữ lượng ngoại tệ (lúc bấy giờ có thể lên tới 4 nghìn tỉ đôla).
Các nhà đầu tư bắt đầu giao động, lo sợ đồng đôla có thể suy sụp, và các
thị trường trái phiếu bán tháo giấy nợ của chính phủ Hoa Kỳ. Liền sau
đó Hoa Kỳ mất điểm tín dụng AAA của mình. Các cuộc bán đấu giá công khố
phiếu Hoa Kỳ không tìm được người mua. Để duy trì lòng tin của giới đầu
tư, Quĩ Dự trữ Liên bang đưa lãi suất lên rất cao. Chẳng bao lâu, lãi
suất vượt quá tỉ lệ tăng trưởng rất xa, và Hoa Kỳ cần tài trợ với lãi
suất thấp. Hoa Kỳ hướng đến các nước xuất khẩu dầu hỏa, nhưng các thủ
lĩnh độc tài thân thiện với Hoa Kỳ ngày xưa đã bị thay thế bởi những nhà
lãnh đạo dân chủ giả hiệu (illiberal democrats) thuộc mọi khuynh hướng
Hồi giáo, từ ôn hòa đến cực đoan, tất cả đều mang ký ức lâu dài về bàn
tay can thiệp của Mỹ tại Trung Đông. Cũng như đối với Hy Lạp, Ái Nhĩ
Lan, và Bồ Đào Nha gần đây, việc tìm kiếm tài trợ từ IMF có vẻ là điều
không thể tránh: vì nếu Hoa Kỳ không trả nổi nợ nần của mình, việc này
sẽ rất nguy hại cho nỗ lực duy trì những gì còn sót lại trong vai trò
toàn cầu của Hoa Kỳ.
Nhưng
vào thời điểm này, TQ, đã là ông chủ ngân hàng lớn nhất thế giới từ năm
2000, đang kiểm soát túi tiền của IMF. Mặc dù TQ cũng nhận thấy việc
IMF cứu giúp Hoa Kỳ là cần thiết, nhưng họ đưa ra một điều kiện tiên
quyết: Hoa Kỳ phải triệt thoái hải quân ra khỏi Tây Thái Bình Dương. Đòi
hỏi này có ảnh hưởng mạnh mẽ vì TQ, trong tư thế là nước đóng góp nhiều
nhất cho IMF và là một ân nhân cho nhiều thành viên của IMF, có thể
ngăn chặn việc Hoa Kỳ xin tài trợ một cách dễ dàng. Vào lúc đó, TQ thậm
chí có thể đã giành được quyền phủ quyết nhờ những cải tổ liên quan việc
điều hành IMF được dự trù vào năm 2018.
Một
số người sẽ cho rằng kịch bản này là hoàn toàn hoang tưởng. Dẫu sao,
Hoa Kỳ có thể dễ dàng từ chối tài trợ cho Vương quốc Anh năm 1956 vì có
làm như thế cũng không gây hậu quả nghiêm trọng cho đồng đôla hay nền
kinh tế Hoa Kỳ. Nhưng nếu ngày mai, TQ bán, hoặc chỉ chấm dứt mua, công
khố phiếu Hoa Kỳ, đồng đôla sẽ xuống giá và đồng nhân dân tệ sẽ lên giá
-- một hậu quả mà chính TQ đã và đang cương quyết ngăn chặn. TQ không
thể bất thần đạp đổ chiến lược tăng trưởng kinh tế bằng thủ đoạn thương
mại (mercantilist growth strategy) và liều mất những số vốn to lớn trong
khối dự trữ ngoại hối của TQ. Một số người khác có thể cho rằng thậm
chí nếu TQ muốn làm như thế khi kinh tế Hoa Kỳ bị đình đốn, thì Quĩ Dự
trữ Liên bang chỉ việc quá sung sướng mua hết bất cứ lượng công khố
phiếu Hoa Kỳ nào mà TQ đem bán đổ.
Nhưng
tất cả dự kiến này không hề xét đến khả năng là, những động cơ của TQ
trong tương lai có thể sẽ khác xa với hiện nay. Kể từ 10 năm sau, TQ có
thể sẽ giảm bớt quyết tâm kìm giá đồng nhân dân tệ. Nếu TQ tiếp tục từng
bước quốc tế hoá tiền tệ của mình, thì cả khả năng kìm giá đồng nhân
dân tệ lẫn động lực để TQ làm như vậy có thể sẽ sớm biến mất. Khi cả hai
điều này biến mất, thì sức mạnh của TQ đối với Hoa Kỳ sẽ trở thành đáng
kể. Nhưng chính phủ TQ là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho Hoa Kỳ: nó
giữ nhiều loại trái phiếu của Mỹ và tài trợ để Hoa Kỳ đối phó với nạn
thâm thủng ngân sách. Sức mạnh đòn bẫy để điều khiển Hoa Kỳ tập trung
trong tay Bắc Kinh.
Hẳn
nhiên, những viễn tượng của một đồng đôla mất giá chắc sẽ ít nhức nhối
cho Hoa Kỳ trong tương lai giả tưởng này hơn là viễn ảnh của đồng
sterling mất giá đối với Vương quốc Anh năm 1956. Lúc bấy giờ, một sự
tuột giá của đồng sterling chắc chắn sẽ gây thiệt hại to lớn cho tiền tệ
của các cựu thuộc địa Anh, tức những nước đang giữ các tài sản to lớn
dựa vào đồng sterling. Những thuộc địa này chắc chắn sẽ bán tài sản bằng
đồng sterling của họ, do đó sẽ làm suy yếu thêm những quan hệ kinh tế
với Vương quốc Anh. Ngăn chặn hiểm họa này là điều quan trọng đối với
chính phủ London trong nỗ lực duy trì những gì còn sót lại của Đế quốc
Anh. Một sự tuột giá của đồng đôla sẽ ít gây rắc rối hơn, một phần vì nợ
nước ngoài của Hoa Kỳ đều tính bằng đôla.
Một
sự lặp lại kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng Kinh đào Suez có vẻ không
thể xảy ra trong thế giới ngày nay. Nhưng tình hình kinh tế hiện nay của
Hoa Kỳ thật sự làm cho nước này có nhiều điểm yếu cơ bản khi đối diện
với sức mạnh khống chế không thể tránh của TQ. Ngày trước, Vương quốc
Anh đã cầm một tay bài kém cỏi trong cuộc khủng hoảng Kinh đào Suez,
không những chỉ vì nước này lâm vào tình trạng nợ nần và nền kinh tế của
nó đang suy yếu, nhưng còn vì một cường quốc kinh tế khác đã xuất hiện.
Ngày nay, thậm chí khi kinh tế Hoa Kỳ đang suy yếu từ trong cơ cấu
(structurally weak), khi cơn nghiện nợ đã làm cho nước này quá lệ thuộc
ngoại bang, và khi viễn tượng tăng trưởng kinh tế của nó là tối thiểu,
thì một đối thủ hùng mạnh đã lù lù xuất hiện. TQ có thể không hẳn là kẻ
địch của Hoa Kỳ, nhưng nó cũng chẳng phải là một đồng minh. Lời tiên
đoán của Macmillan năm 1971, rằng Hoa Kỳ có thể suy yếu “trong 200 năm
nữa”, đã để lộ một lối giải thích lịch sử máy móc: ông đã tiên đoán một
vai trò siêu cường lâu dài cho Hoa Kỳ, tương tự như địa vị siêu cường mà
nước ông từng được hưởng. Nhưng TQ có thể thúc đẩy tiến trình các mô
hình lịch sử -- và buộc Hoa Kỳ phải đối diện với sự xuống dốc của mình
sớm hơn Macmillan tiên đoán rất nhiều hay thậm chí sớm hơn cả hầu hết
mọi người dự kiến hiện nay.
Arvind
Subramanian là hội viên nghiên cứu thâm niên tại Viện Peterson về khoa
Kinh tế Quốc tế (the Peterson Institute for International Economics) và
tại Trung tâm Phát triển Toàn cầu (the Center for Global Development).
Bài báo này dựa vào nội dung cuốn sách sắp xuất bản của ông, cuốn
Eclipse: Living in the Shadow of China’s Economic Dominance (Peterson
Institute for International Economics, 2011)
Nguồn: Foreign Affairs, tháng Chín/tháng Mười 2011
Đã đăng trên vanchuongviet.org


10:18
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét