Thứ Năm, 2 tháng 10, 2014
ĐÂY ! BỘ MẶT ĐẠO ĐỨC CỦA VATICAN Và Của “ĐỨC THÁNH CHA” BENEDICT XVI
21:17
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trần Chung Ngọc
Hầu hết các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo [Công giáo], nhất là các tín đồ Việt Nam, sống qua suốt cuộc đời mà không hề biết đến thực chất Ca-tô Rô-maGiáo của họ là như thế nào. Họ không hề biết đến lịch sử thực sự của Giáo hội Ca-tô, không biết đến vấn đề đạo đức của các Giáo hoàng cũng như các bậc chăn chiên ở dưới, từ Hồng Y xuống tới các linh mục. Vì vậy, suốt cuộc đời họ sống trong một ngục tù tâm linh u mê tăm tối của một đức tin mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Chúng ta còn nhớ một câu nói thời danh: “Giáo hội không sợ bất cứ thế lực nào khác mà chỉ sợ sự thật”. Cho nên, Giáo hội đã tìm đủ mọi cách để che dấu những sự thật về Giáo hội, giữ tín đồ trong vòng u mê tăm tối của một đức tin mà ngày nay đã không còn giá trị, nhờ đó mà Giáo hội đã có thể vượt qua được bao nhiêu biến động tưởng không thể cứu vãn được, và tiếp tục ngự trị trên đám tín đồ đông đảo thấp kém ở dưới. Chính sự ngu dốt và cuồng tín của đám tín đồ thấp kém ở dưới đã duy trì sự tồn tại của Giáo hội.
Cách đây hơn 1 thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã giải thích điều này. [Robert G. Ingersoll được coi như là một nhà hùng biện và nhà tự do tư tưởng vĩ đại nhất của nước Mỹ {A celebrated orator and free thinker of 19th century America]. Ông ta là bạn của 3 Tổng Thống Hoa Kỳ, là người đã có công nhất trong việc làm nở rộ quyền tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. [A personal friend of three U.S. presidents, the individual most responsible for the flowering freethought in the United States]. Bức tượng của ông, ghi công ông, nay được đặt ở Periora, tiểu bang Illinois. Edgar Lee Master, một thi sĩ, đã đưa ra nhận xét: "Đối với những người yêu chuộng tự do ở khắp nơi, nhất là đối với giới trẻ ở Hoa Kỳ không biết đến Robert G. Ingersoll, hãy nhớ rằng ông ta đã giúp để cho quý vị được tự do."[1]. Ingersoll đã nói thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140):
Ca-tô Rô-maGiáo thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt.(cunning) [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.]
Điều này thật quả không sai, số đông tín đồ thấp kém thì chẳng biết gì, còn giới chăn chiên, không phải là không biết, nhưng vì quyền lợi tinh thần và vật chất trên đám giáo dân thấp kém ở dưới, nên vẫn bưng bít, dấu kín những sự thật về Giáo hội và thực chất đức tin Ca-tô Giáo trước đám tín đồ. Một tài liệu điển hình về kết quả nghiên cứu của Russell Shorto trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth), trang 14, viết như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.[2]
Vì tiếp tục sống trong bóng tối nên chúng ta thấy trên vài trang nhà của Ca-Tô Rô-maGiáo Việt Nam vẫn huênh hoang nói lên câu vô nghĩa: Giáo hội Ca-tô Rô-ma là “Giáo hội mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền” dù rằng hàng ngàn công cuộc nghiên cứu về Ca-tô Rô-maGiáo của các học giả Tây phương, gồm cả các bậc chăn chiên như Linh mục, và cao cấp hơn như Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, khoan kể đến các nhà thần học nổi danh thế giới như Hans Kung, Uta-Ranke Heineman, John Shelby Spong v..v.. đã chứng minh dứt khoát là Ca-tô Rô-maGiáo tuyệt đối không có cái gì có thể gọi là “mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền”. Chúng ta hãy điểm sơ vài nét về lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, về đạo đức của các Giáo hoàng và giới chăn chiên.
Về Lịch Sử :
Về lịch sử thì hầu hết các tín đồ Ca-tô không biết đến một sự kiện vang động thế giới: ngày Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2000, trong một cuộc “Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con chiên, người Chủ Chiên, Giáo hoàng John Paul II, đại diện cho Ca-tô Rô-maGiáo gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, cùng với 5 hồng y và 2 tổng giám mục, trong đó có tồng giám mục Nguyễn Văn Thuận của Việt Nam, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân loại của Ca-tô Rô-maGiáo, và xin thế giới tha thứ cho những hành động tàn bạo đối với nhân loại của những con cái giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo. Những hành động này, như được nhắc tới, hết sức đại cương trong những lời xưng thú 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo như sau:
1. Xưng thú “tội ác chung”.
2. Xưng thú “tội ác trong khi phục vụ “chân lý””. [Nhân danh chân lý Ca-tô, Giáo hội đã phạm phải những tội ác vô tiền khoáng hậu đối với nhân loại như: Thánh Chiến, Tòa án xử dị giáo, săn lùng và thiêu sống phù thủy v..v..]
3. Xưng thú “tội ác đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”. [Các giáo hội Ki Tô như Ca-tô Rô-maGiáo, Chính Thống Giáo, Phản Thệ Giáo (Tin Lành) đều chém giết nhau không nương tay. Nguyên ở Croatia trong đệ nhị thế chiến, chính quyền Ca-tô đã giết khoảng 700.000 người Serb theo chính thống giáo (orthodox) và gypsy.]
4. Xưng thú “tội ác trong sách lược bách hại dân Do Thái”. [Giáo hội vu cho người Do Thái cái tội giết Chúa , do đó đã bạo hành người Do Thái suốt bao nhiêu thế kỷ, đưa đến cao điểm là Hitler của Ca-tô Giáo đã giết 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến]
5. Xưng thú “tội ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”. [Giáo hội đã làm tiên phong hoặc theo gót các thế lực thực dân đi xâm chiếm các nước kém phát triển và thực hiện những lời thú tội trên. Ở Việt Nam, xin đọc “Phép Giảng 8 Ngày” của tên thừa sai thực dân Alexandre de Rhodes, hay đọc những Kinh Nhật Khóa của Giáo hội Ca-tô Việt Nam].
6. Xưng thú “tội ác trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.
7. Xưng thú “tội ác trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”. [Cưỡng bách người khác theo đạo, bạo hành những người theo đạo khác v…v…]
Chi tiết về những núi tội ác trên đã được trình bày tạm gọi là đầy đủ trên trang giaodiemonline qua một loạt bài như sau:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=55
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=52
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=51
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=361
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=360
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=490
http://giaodiemonline.com/2007/feb/hacsu4.htm
http://giaodiemonline.com/2007/07/cghacsu5.htm
Bất kể giáo hội có giải thích hành động xưng thú tội lỗi của giáo hoàng như thế nào đi chăng nữa, là hành động can đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống hối của Ca-tô Rô-maGiáo, là để thanh tẩy ký ức hay để tiến tới sự hòa hợp tôn giáo v…v…, các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo vẫn không thể nào giải đáp được thỏa đáng những câu hỏi như:
Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như vậy? trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm? Vậy vô thần so với hữu thần, đằng nào thánh thiện hơn? Tại sao cho tới ngày nay mà những người Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam vẫn ngu ngơ luôn luôn mở miệng ra là lên án vô thần, làm như vô thần đồng nghĩa với vô đạo đức, vô tôn giáo, trong khi, xét theo lịch sử, chính cái tôn giáo của họ, Ca-tô Rô-maGiáo, là vô đạo đức và vô tôn giáo vào bậc nhất thiên hạ.
Những câu hỏi này sẽ luôn luôn ám ảnh những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo có đầu óc, còn đôi chút lương tri và liêm sỉ. Vì một tôn giáo mà gây ra nhiều tội đại ác như tra tấn, tù đầy, thiêu sống v..v.., giết hại hàng chục triệu sinh mạng vô tội, nếu không muốn nói đến cả trăm triệu, gồm cả đàn bà và trẻ con, bất cứ vì lý do nào, thì không thể được coi là một tôn giáo, theo bất cứ nghĩa nào. Đó chẳng qua chỉ là một tổ chức núp sau bình phong tôn giáo để duy trì những quyền lực thế tục. Lương tâm trí thức của họ bắt họ phải trực diện với sự thực này. Phải chăng họ đã bị lừa dối từ bao thế kỷ nay bởi một cái bánh vẽ trên trời mà không cần đếm xỉa gì tới vấn đề đạo đức, luân lý? Phải chăng họ đã bị nhào nặn từ nhỏ để có một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ ham hố một sự “cứu rỗi” tưởng tượng cho riêng mình mà không cần biết đến cái cộng đồng tôn giáo của mình ra sao? Phải chăng họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ đến độ chỉ còn có thể tin một cách mù quáng, không còn khả năng suy nghĩ để tìm ra lẽ thật? v..v..
Tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo muốn tôn vinh quyền năng của Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và Giáo hoàng thế nào thì tôn vinh, nhưng họ không bao giờ có thể xóa bỏ được những sự thực lịch sử về Công Giáo, những sự thực đã làm cho cả thế giới phải ghê sợ, những sự thực đã bị phanh phui đến mức độ giáo hội không thể làm gì khác là đưa giáo hoàng và bộ tham mưu của ông ta ra xưng tội cùng thế giới loài người về những tội ác của Giáo hội Ca-tô Rô-ma để xoa dịu dư luận thế giới.
Những tội lỗi của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại, qua lời xưng thú tội lỗi của tập đoàn Vatican, sẽ ám ảnh lương tri của người Ca-tô Rô-maGiáo suốt đời, không phải vì họ phải chịu trách nhiệm về những việc làm của giáo hội trong quá khứ, mà vì dù muốn dù không, họ cũng thuộc một đoàn thể có một lịch sử quá đen tối, trái ngược với những lời tuyên truyền giả dối đã tạo thành niềm tin của họ. Từ nay, họ không còn có thể tự đề cao mà không ngượng miệng những điều họ được nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ để biến họ thành những kẻ cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt, hợm hĩnh và huênh hoang, ví dụ như Ca-tô Rô-maGiáo là một tôn giáo thánh thiện, duy nhất thiên khải, cao quý hơn tất cả các tôn giáo khác, hoặc như, người trong đạo là những người lành thiện, đạo đức hơn tất cả những người “ngoại đạo” v…v… Thế giới đã thấy rõ từ lâu, tất cả những lời tự tôn, tự ca tụng, tự tôn vinh v..v.. của Giáo hội Ca-tô chỉ là những lời tự nhận tuyên truyền huênh hoang giả dối cho đám tín đồ thấp kém, trái hẳn với bản chất mê tín, hoang đường, thấp kém, tàn ác v..v.. của giáo hội Ca-tô.
Tưởng chúng ta cũng nên biết, khi Giáo hoàng John Paul II chính thức xưng thú 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại và xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo bằng những lời lẽ rất đại cương như trên, thì ký giả Lewis Weinstein đã viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000, như sau: "Hầu hết các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo không biết đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo) mà Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào." [3]
Sự thật đó như thế nào? Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo, chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong vài câu ngắn gọn: 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại nói chung, Việt Nam nói riêng, có thể mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
(Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)
bởi vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh phúc âm, chân lý của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu mạo của các tôn giáo khác, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền văn hóa phi Ki-Tô v..v… theo sách lược truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo trên thế giới. Một Giáo Hội có một lịch sử các tội ác như vậy thì khó có thể quan niệm đó là một Giáo hội “thánh thiện” hay là một “hội thánh” mà các tín đồ thường được nhồi sọ để tin là mình đang ở trong một “hội thánh” thánh thiện, tông truyền...
Về Đạo Đức Của Các Bậc Chủ Chăn: Giáo Hoàng:
Năm 1987, Tiến Sĩ Arthur Frederick Ide đã xuất bản cuốn sách nhan đề “Vạch Trần Các Giáo Hoàng: Một Nghiên Cứu Thẳng Thắn về Tình Dục Và Đồi Bại Trong Vatican” (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex and Corruption in the Vatican. AA Press, TX, 1987) với Lời Đề Tặng các tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo như sau:
Hiến Tặng tất cả những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo
- Những người thường đi xưng tội với các linh mục, vốn là những người cũng phạm tội như họ.
- Và tuân phục một Giáo Hoàng, Người tự cho là không thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao
- Có quyền giữ trong tay Chìa khóa mở cửa thiên đường.
- Nhưng lịch sử đã chứng tỏ Thực sự chỉ mở những cánh cửa vào nhục dục, trụy lạc, và bạo lực.
[Dedicated To All Roman Catholics s
- Who confess their sins to priests -Who do as they do, And
- Who believe in a Pope, Who claims to be infallible Primary, and supreme
- Having the power to the keys to the kingdom of heaven
- Which hictory shows actually open the doors of sex, vice, and violence]
TTín đồ Ca Tô giáo ở Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”, tin rằng giáo hoàng đương nhiên phải là bậc thánh thiện (holy), vì giáo hội dạy rằng, giáo hoàng được chọn là do kết quả hướng dẫn của thánh linh cho các hồng y, những người có quyền chọn lựa, quyết định ai là giáo hoàng. Vả chăng, Giáo hội cũng bắt các tín đồ Ca Tô giáo nói chung, Ca Tô giáo Việt Nam nói riêng, phải tin rằng giáo hoàng là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ) trên trần, nắm trong tay chìa khóa của thiên đường (mù), có quyền cho họ lên thiên đường hay tuyệt thông họ. Tất cả những niềm tin này đều do các “bề trên” của họ cấy vào đầu óc từ khi còn nhỏ.
Tại sao họ có thể tin vào những điều lừa dối rất trắng trợn này. Trách nhiệm chính là do các “bề trên” của họ, những người đã nhốt họ vào vòng mê tín qua một chính sách nhồi sọ tinh vi để dễ bề ngự trị trên họ. Có thể nói rằng, các tín đồ tin là vì trong đầu óc họ hầu như có một cái “gen” để tin vào bất cứ điều gì, và lẽ dĩ nhiên, vì chính sách của giáo hội, họ không bao giờ được dạy hay được quyền biết gì về lịch sử các giáo hoàng trong giáo hội của họ. Lịch sử các giáo hoàng Ca Tô đã viết rõ: có những giáo hoàng do vua chúa chỉ định, có những giáo hoàng giết nhau để lên làm giáo hoàng, có những giáo hoàng do những cô gái điếm dựng lên, có những giáo hoàng là trẻ vị thành niên mới có 12 tuổi, có những giáo hoàng là con hoang của một giáo hoàng, hay là con của giáo hoàng loạn luân mà sinh ra v..v.. (Xin xem thêm Decline and Fall of the Roman Church của Malachi Martin, một linh mục cởi áo, từng dạy Thần học Công giáo tại Vatican).
Ngoài ra, Những sự kiện này sẽ được chứng tỏ rõ ràng thêm qua một số tài liệu sau đây.
Trước hết, tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh [Deceptions and Myths of the Bible, trang 463-468] của Lloyd M. Graham. Đây chỉ là một đoạn tóm tắt một số sự kiện liên quan đến chế độ giáo hoàng. Chi tiết về những sự kiện này sẽ được bổ túc qua những tài liệu của các vị có thẩm quyền trong giáo hội Ca Tô. Phần trích dẫn này chỉ là một phần trong bài nghiên cứu (với nguyên bản Anh ngữ) về Lịch sử các Giáo hoàng đăng trên http://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN20.php
Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng tôi trình bày ở đây là chủ ý đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô nhục. Lý do để đưa ra mặt này là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn phết mặt kia và đưa cao nó lên như là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ dạ, cả tin. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là cho những người đang sống trong sự nô lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo. Đối với những người này, một ngàn năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt.
Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học thuật Ca-tô Rô-maGiáo. Không ở đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các giáo hoàng đồi bại.
Những tội ác của các giáo hoàng là do những người khác làm và “không thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị giáo là một “điều cần thiết của thời đại”, những sự trụy lạc của giáo hoàng chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”. Những hồ sơ ghi chép sự việc đương thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu trên, và những điều ghi chép này không phải là do những kẻ thù của giáo hội viết, mà phần lớn là do những sử gia của chính giáo hội gồm có những giáo hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục Liutprand, linh mục Salvianus, và các sử gia như Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, và nhiều người khác. Đây chính là những người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái mặt đen tối và ô nhục của giáo hội. Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội, cho rằng giáo hoàng đã được thánh linh tuyển chọn và hướng dẫn.
Trong “thời đại tăm tối” (the dark ages) những giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10 giáo hoàng bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 giáo hoàng bị giết trong vòng hơn 100 năm. Giáo hoàng Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo hồng y Baronius và Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm. Năm 708, Toto, một nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho anh hắn được bầu làm giáo hoàng. Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau đó bị Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra. Rồi Christopher cùng con của hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory. Hai đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục. Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để giết Leo III khi ông ta đi dạo phố. Việc không thành, chúng đích thân ra tay, kéo Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó. Chắc độc giả cho rằng đó là chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng. Nhưng không phải vậy, đó là dựa theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các giáo hoàng.
Đó chỉ là chuyện thường tình của thời đại. Giáo hoàng Leo V bị một người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt tên này cũng bị hạ bệ và cái tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã nói ở trên, Sergius III, lên thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores). Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”. Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người này.)
Theo sử liệu, hồng y Francone cho người thắt cổ giáo hoàng Benedict VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một con quỷ khủng khiếp vượt mọi con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert. Hắn ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo hoàng Boniface VIII.. Thật vậy! Để chiếm được cái mũ tiara (mũ ba tầng của giáo hoàng. TCN) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở hơi Celestine V. Nhưng hắn cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì ngay sau đó hắn bị những người La Mã truất phế. Trong triều đại của một giáo hoàng kế vị, Clement V, sau khi chết hắn còn bị mang ra xét xử và được xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết người. Và khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra rằng Clement đã quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very clement” vì clement có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền tương đương với 5 triệu dô-la, tiền của giáo hoàng. Vào thời gian này, triều đình của giáo hoàng được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng lúc có hai người kế thừa, một người ở Avignon và một người ở Rô-Ma. Nhưng vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory XII, Alexander V, và John XXIII. Về sau John XXIII bị từ khước, tên thánh bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII) được giáo hoàng kế vị Pius XII lấy lại.
Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán chứng thư xá tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber. Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.” Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (the princes of the church: nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.
Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau: “..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng y..
Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần truồng trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục, linh mục] và vị đại diện của Chúa (giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”
Đó là những ông hoàng của giáo hội trong những ngày đó. Trong thời Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là một tập thể mà người ta có thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử. Chiếm được một ngôi vị hồng y chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc. Đức tính, sự hiểu biết, và khả năng không dự phần nào trong đó. Thật vậy, những đứa trẻ mười bốn mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y. Giáo hoàng Paul III cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y.. Paul IV cũng cho một đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng y tuy chính ông ta nói “cánh tay của nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”
Vậy mà đó là những người, với sự trợ giúp của Thánh Linh, tuyển chọn giáo hoàng.
Tại sao cái lịch sử ô nhục này không được tín đồ biết đến như là lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt? Tại sao các tín đồ Công giáo không được dạy rằng chính những con người như trên đã đưa đến sự cải cách chứ không phải là do “con quỷ Luther đó.”? Giáo phái Tin Lành nổi giậy không chỉ vì Luther mà vì sự phản đối tội ác và sự đồi bại của giáo hội Công giáo trong nhiều thế kỷ. Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến toàn thể Âu Châu.
[Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, trang 463-468]
Trên đây chỉ là sơ lược về những sự đồi bại cùng cực của một số không nhỏ “đức thánh cha” của giáo dân Việt Nam, những “đại diện của Chúa” trên trần, những người được Thánh Linh nhập vào tập đoàn hồng y trong sự tuyển chọn, trong lịch sử Ca Tô Rô-maGiáo. Đó là tôi chưa đề cập đến những hoạt động lừa đảo, gian dối, thế tục, thực dân của “hội thánh” liên hệ đến những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa v..v.. trên khắp thế giới. Những vấn đề này cần riêng một cuốn sách mới có thể tạm gọi là đầy đủ.
Về Đạo Đức Của Các Bậc Chăn Chiên: Hồng Y… và Linh Mục:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=494
Linh Mục Là Ai? Đó là đầu đề một bài viết trên tiengnoigiaodan.net. Tác giả bài viết này là Linh mục Giuse Vũ Đức ở Detroit. Linh mục thực sự là ai? Ngày nay chúng ta không thiếu gì tài liệu, kể cả tài liệu của những vị đã ở trong nghề Linh mục nhiều chục năm như Joseph McCabe, James Kavanaugh, hay Charles Chiniqui. Nhưng chúng ta thử xem Linh Mục Vũ Đức đã giảng “Linh Mục là ai?” như thế nào. Đây là nguyên văn câu kết trong bài “Linh Mục Là Ai?” của Linh mục Vũ Đức trên tiengnoigiaodan.net:
“LINH MỤC là ai? Trả lời một cách ngắn gọn và đầy đủ Ngài là CHÚA KITÔ THỨ HAI (Alter Christus) như thế thưa Cha mới [được phong linh mục]: từ nay Cha là Chúa KITÔ.”
Chắc chắn là các con chiên đọc câu này là thấy vui rồi vì họ luôn luôn được Chúa KITÔ, hay ít nhất cũng là CHÚA KITÔ THỨ HAI, dạy bảo cho họ trở thành đúng là con chiên. Là người ngoại đạo nhưng tôi đọc cũng thấy vui, vui đến nỗi phải phá ra cười. Tôi mang câu này đi khoe với một số bạn bè thì ai cũng phá ra cười. Vui thì vui thật nhưng cái đầu óc dị giáo của tôi lại có vài thắc mắc, tôi hi vọng linh mục Vũ Đức cũng như bất cứ người Ca-tô nào có thể giải đáp dùm những thắc mắc cho tôi được không?
Trước hết là, CHÚA THỨ NHẤT đã chết cách đây gần 2000 năm rồi VÀ CHƯA BAO GIỜ TRỞ LẠI DÙ ÔNG TA HỨA HẸN VỚI MỘT SỐ TÍN ĐỒ LÀ SẼ TRỞ LẠI NGAY KHI HỌ CÒN SỐNG [Chắc Linh Mục Vũ Đức cũng đã đọc những đoạn này trong Tân Ước? có trích dẫn trong một phần sau], vậy ngày nay chúng ta chỉ còn những CHÚA KITÔ THỨ HAI, rất nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI trên thế giới, đủ mọi quốc tịch, nói đủ thứ tiếng, từ mũi lõ mắt xanh đến da vàng mũi tẹt, từ đen như củ súng đến lờ lờ như thổ dân Da đỏ v…v….Tốt lắm!Vì càng có nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI bao nhiêu càng tốt cho tín đồ Ca-tô bấy nhiêu, nhất là tín đồ Ca-tô Việt Nam, có phải như vậy không?Linh mục Vũ Đức nói không sai, ít ra là đối với các tín đồ Ca-tô Việt Nam, vì tôi còn nhớ trước đây có ông giám mục ở Việt Nam khuyên các con chiên phàn nàn mấy ông CHÚA KITÔ THỨ HAI làm bậy ở Việt Nam là:“Các con đừng nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”
Nhưng tôi nghĩ đến các CHÚA KITÔ THỨ HAI đã đi hiếp dâm các “sơ của Chúa” trong 23 quốc gia trên thế giới, có nơi còn bắt họ đi phá thai.Linh mục Vũ Đức cũng còn viết: từ nay Cha là Chúa KITÔ.Vậy Chúa nào đi hiếp dâm?Chúa thứ nhất hay Chúa thứ hai hay cùng là một Chúa?Không biết Tam Đoạn Luận sau đây có đúng hay không?
- Người đi hiếp dâm các bà xơ là Linh Mục.
- Mà Linh Mục là Chúa Ki Tô.
- Vậy thì chính Chúa Ki Tô đã đi hiếp dâm các bà xơ.
Tôi đặt vấn đề để cho Linh Mục Vũ Đức thấy là ông ta đã viết láo và mạ lị chính Chúa của ông ấy, chứ không phải là tôi cố ý phỉ báng Chúa Ki Tô đâu.Tôi kính trọng Chúa lắm cho nên mới phải vạch ra luận điệu sai lầm của Linh mục Vũ Đức, ngõ hầu cứu vãn lại danh dự và sự vinh quang cho Chúa.
Tôi cũng nghĩ đến hiện nay có trên 5000 CHÚA KITÔ THỨ HAI đã bị truy tố về tội cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ.Có nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI đang ngồi tù, vì tất cả vẫn còn mang chức linh mục trên người, và các giáo hội địa phương đã phải bỏ ra từ 2 đến 3 tỷ Mỹ kim để bồi thường cho những nạn nhân tình dục của các CHÚA KITÔ THỨ HAI hay chính là CHÚA KI TÔ.
Tôi cũng lại nghĩ đến các tín đồ Việt Nam thường gọi các CHÚA KITÔ THỨ HAI Việt Nam khác là “CHA”, và hình như các “cha” này đến Vatican cũng phải quỳ lạy trước mộtCHÚA KITÔ THỨ HAI mũi lõ mắt xanh cao cấp hơn nhưng lại vô đạo đức tôn giáo như Giáo hoàng Benedict XVI.
Tại sao lại là vô đạo đức tôn giáo?Vì khi còn là Hồng Y Thiết Giáp Ratzinger, nay là Giáo hoàng Benedict XVI, ông ta đã đưa ra một nhận định mà không ai có thể cho là có đạo đức tôn giáo, về Phật Giáo như sau: “Buddhism is a sort of auto-erotic spirituality” (Phật giáo là một loại tâm linh tự dâm), và ngay gần đây ông ta đã mượn lời của một ông Vua vùng Byzantine vào thế kỷ 14 để đả kích giáo chủ Hồi Giáo Muhammad là “ác và vô nhân đạo, chủ trương bành trướng tôn giáo bằng bạo lực” (Show me just what Muhammad brought that was new, and there you will find things only evil and inhuman, such as his command to spread by the sword the faith he preached).Thế giới Hồi Giáo lên tiếng phản đối, nhiều kẻ cuồng tín đốt hình nộm của Benedict XVI, ném các túi sơn vào căn nhà nơi sinh của Ratzinger ở Bavaria (Đức quốc), đòi Benedict XVI phải đích thân xin lỗi, và dọa sẽ tuyệt giao với Vatican.
Đối với đám tín đồ thấp kém, từ đời này sang đời khác, thì họ đã được Giáo hội nhồi sọ qua những cái loa của các bậc chăn chiên, coi họ như là các bậc thánh thiện và không mấy tin ở cái mặt trái của giới Linh mục. Nhưng đối với thế giới Tây phương, cái nôi của Ca-tô Rô-maGiáo trước đây, thì quan niệm của giới trí thức đối với giới Linh mục có thể nói là rất tiêu cực vì họ đã hiểu rõ bản chất xảo quyệt (Ingersoll) của giới này.ày.
۞
Chúng ta hãy điểm qua vài nhận định điển hình về linh mục của một số danh nhân trí thức Âu Mỹ:
Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa Lan: Người nào đọc lịch sử giới Linh mục không đọc gì khác ngoài sự gian giảo và điên rồ của các giám mục và linh mục. (He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and folly of bishops and churhmen.)
John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh: Ca-tô Rô-ma là một tôn giáo không gì hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the command of Chist himself.)
Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia Anh: Trong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới Linh mục là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)>.)
Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh: Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin, (Priests can lie, and the mob believe, all over the world).
Đại Văn Hào Voltaire (1694-1778): Lời của Chúa là lời của các linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa là xúc phạm các linh mục; tin vào Chúa là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)
Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh: Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của các Linh Mục thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than their virtues.)
Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ: Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do. (In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty).
James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ: Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới Linh mục, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ; sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial.What has been its fruits?More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)
Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp: Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức: Ca-tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it.The priest are the brokers for it)
Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.)
Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Công Giáo, chỉ còn lại Vatican ngày nay): Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.)n>.)
Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ: Một thầy giáo giỏi có giá trị bằng1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.)
William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ Lan: Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Linh mục Ca-tô Giáo hay Mục sư Tin Lành,đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)
Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên tên linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.) >.)
Các tín đồ Ca-tô đưa ra những lời rất ngớ ngẩn để bào chữa cho những sự vô đạo đức của giáo hoàng và giới chăn chiên như sau: “Những người đó chẳng qua cũng chỉ là con người chứ giáo hội vẫn luôn luôn thánh thiện” Họ quên rằng, Giáo hoàng không phải là người như mọi người mà là “đại diện của Chúa”, và các linh mục cũng không phải là những người thường như mọi người mà là các “Chúa thứ hai” hay chính là Chúa, vì họ có quyền tha tội cho ai thì tha, cầm giữ ai thì cầm giữ. Lẽ dĩ nhiên tôi không có cách nào có thể đưa ra tất cả những tài liệu về “Linh Mục Là Ai” vì lẽ dĩ nhiên là tôi không biết hết, mà chỉ biết có một phần, một phần mà tôi cho là đã quá đủ rồi. Nhìn vào những tin tức trên những diễn đàn thông tin quốc tế về những tội ác tình dục của Linh mục, cũng như đọc một số sách viết về Linh mục bởi các Linh mục, chúng ta có thể dư biết thực chất Linh mục là như thế nào.
Có phải là vô cớ không mà, “Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Ca –tô Rô-ma, trong cuộc Cách Mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca-tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v..” [Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]
Người đọc sử không thể không tự đặt cho mình một câu hỏi: Nước Pháp vào thế cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Ca-tô Giáo. Nền giáo dục quốc gia nằm trong tay giới giáo sĩ. Nếu Ca-tô Giáo thực sự là một lực lượng tinh thần của dân chúng, nếu Ca-tô Giáo là một “hội thánh” được chỉ đạo về luân lý đạo đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Ca-tô Giáo thực sự mang phúc lợi đến cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra những vụ tàn sát như trên sau cuộc cách mạng 1789? Câu trả lời thật là đơn giản. Vì Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia. Chúng ta có thể nhận rõ hiểm họa này qua vài hành động của giới trí thức Pháp vào thời đó.
Nhà đại văn hào Victor Hugo đã đưa ra nhận định: “Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.” [4]. Các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai phóng, tiến bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục của giáo hội Ca-tô mà họ cho là có mục đích “dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và chống lại thời đại của chúng” [Élever les enfants contre leur pays et contre leur temps]; và họ đã thành công trong việc “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh mục, vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” [Arracher l’enfant au moine, dévoiler les hypocrisies de l’Église].
Sau cùng, tôi muốn nói đến vấn đề vô đạo dức của Vatican từ xưa tới nay, và Giáo hoàng Benedict XVI cũng không ngoại lệ trong vụ bao che các linh mục loạn dâm. Giáo hội đã biết vấn nạn các linh mục loạn dâm từ nhiều thập niên trước nhưng chính sách bao che của Giáo hội đã giữ kín những vụ này cho đến khi vụ nổ tình dục của giới giáo sỉ Ca-tô ở Boston vào đầu thập niên 2000. Hồng Y Bernard Law ở Boston, người vừa được giáo dân Việt Nam cúi đầu đón tiếp tưng bừng khi ông ta đến Việt Nam trong “năm thánh” của họ, chính là người đã theo chính sách mật của Vatican để bao che những linh mục loạn dâm dưới quyền của ông ta. Cho đến khi không thể che dấu được nữa và vì mang quá nhiều tai tiếng thì ông ta được Vatican gọi về Vatican, trao cho một chức vụ cao cấp. Rồi được đi Việt Nam dự «năm thánh»
۞
Sau đây là hai tài liệu trên http://www.bibliotecapleyades.net/: qua hai bài:
- “Vatican told bishops to cover up sex abusebuse”
(Vatican bảo các Giám mục hãy bao che vụ lạm dụng tình dục) của Antony Barnett
- “A Pope [Beneict XVI] To Be Ashamed of”
(Một Giáo hoàng đáng lấy làm xấu hô3” của Helen và Harry Highwater
Hai bài này dài và chứa nhiều chi tiết động trời nhưng tôi chỉ trích dẫn hai đoạn ngắn quan trọng.
Tờ Observer đã lấy được một hồ sơ mật vốn có từ 40 năm trước trong văn khố mật của Vatican [from the secret Vatican archive], hồ sơ mà các luật sư cho rằng một “kế hoạch để lừa dối và che dấu” [a blueprint for deception and concealment]. Một luật sư người Anh của những nạn nhân tình dục của Giáo hội Ca-tô mô tả hồ sơ đó như là sẽ nổ lớn. [explosive].
Tài liệu 69 trang viết bằng tiếng Latin có dấu ấn của Giáo Hoàng John XXIII đã được gửi tới mọi giám mục trên thế giới, chắc chắn là có giám mục Việt Nam [was sent to every bishops in the world]. Huấn thị trong tài liệu này là hoạch định một chính sách giữ tuyệt mật đối với những vụ lạm dụng tình dục và đe dọa kẻ nào nói ra sẽ bị vạ tuyệt thông [5] Tài liệu cũng kêu gọi các nạn nhân tình dục phải thề giữ kín chuyện bị xâm phạm tình dục của họ [to take an oath of secrecy].
Và Giáo hội đã theo răm rắp chính sách vô đạo đức đó cho đến ngày nay. Ratzinger phải chịu trách nhiệm trong việc đối phó với xì-căng-đan tình dục mà hàng trăm linh mục lạm dụng những đứa trẻ, lợi dụng cái cổ cồn trắng của các linh mục [hundreds of priests who molested children under the cover of their clerical collarsars]. Vậy thì ông ta đã làm gì?
Năm 2001, sau các vụ linh mục loạn dâm trong nhiều thập niên cuối cùng bị phanh phui, ông ta đã viết một bức thư cho các giám mục, nhắc họ rằng, lệnh của chính sách giáo hội từ năm 1962 [trong văn kiện mật của Giáo hoàng John XXIII đã nói ở trên] là chỉ Giáo hội mới có quyền điều tra [những vụ lạm dụng tình dục], tránh qua những chức quyền cảnh sát thế giới, và đòi hỏi các nạn nhân tình dục phải thề là giữ kín [6]
Đúng ra là Ratzinger đã ra lệnh một chính sách bao che. [In effect, Ratzinger ordered a cover-up.]
Đó là vài vấn đề đạo đức trong Giáo hội “thánh thiện” Ca-tô, của các “Đức Thánh Cha” và các “Chúa thứ hai” của Giáo dân Việt Nam.
۞
Để loại bỏ những lời chụp mũ vu vơ là người viết bài này “chống Công giáo” hay “làm tay sai cho Cộng sản”, tôi xin quý độc giả ghi nhận một điểm, và tôi xin nhấn mạnh điểm này: Trong tất cả tài liệu dùng trong bài viết này, tuyệt đối không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản, mà là tài liệu của giới trí thức cũng như trên báo chí Tây phương. Bài viết này chỉ có tính cách nghiên cứu lịch sử, những trang sử mà tôi nghĩ rằng trong thời đại ngày nay, các tín đồ Ca-tô Giáo Việt Nam cũng như những người ngoại đạo cần phải biết rõ về một tôn giáo chiếm 7% dân số Việt Nam, chứ tuyệt đối không nằm trong sự tranh chấp tôn giáo hay ý thức hệ. Trong thời đại ngày nay và trong chiều hướng đang đi lên của Việt Nam hội nhập vào cộng đồng thế giới tiến bộ, việc nghiên cứu lịch sử thế giới, nhất là về tôn giáo, để mở mang dân trí người dân là một việc cấp bách không thể thiếu sót.
Lịch sử đơn thuần chỉ là những sự kiện trong dân gian được ghi lại như chúng là như vậy. Còn ai muốn phủ nhận lịch sử ra sao lại là một chuyện khác.
Để kết luận, tôi xin được trích dẫn hai nhận định sau đây của Leo Tolstoy, một đại văn hào Nga, và của Arthur Schopenhauer trong số hàng trăm các nhận định tương tự khác của giới trí thức Tây phương.
Leo Tolstoy : Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo hội Ca-tô là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành [I am convinced that the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.]
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức: Bạn có thể ghi nhận là đức tin và kiến thức thì liên hệ với nhau như là hai cán cân; khi cán cân bên này lên thì cán cân kia xuống. Những hoa trái của Ki Tô giáo là chiến tranh tôn giáo, những cuộc tàn sát, những cuộc chiến tranh thập giá, những tòa án xử dị giáo, sự tiêu diệt các thổ dân Mỹ, và đưa những nô lệ Phi Châu vào thay thế. Ca-Tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường. Mọi tín lý, bất kể là vô lý tới đâu, khi cấy vào con người từ nhỏ, chắc chắn là ở trong đó suốt đời [7]
Xét đến lịch sử ô nhục đẫm máu của Giáo hội Ca-tô qua những cuộc thánh chiến, tòa án xử dị giáo, săn lùng và thiêu sống phù thủy, cùng vấn đề đạo đức của một số không nhỏ giáo hoàng cũng như của giới chăn chiên, ai có thể phủ nhận những nhận định trên, xin mời lên tiếng.
[1] To the lovers of liberty everywhere, but chiefly to the youth of America who did not know Robert G. Ingersoll, remember that he helped to make you free.
[2] Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.
[3] Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor, archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.
[4] La civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion, deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres. L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos enfants: l’avenir
[5] The 69-page Latin document bearing the seal of Pope John XXIII was sent to every bishop in the world. The instructions outline a policy of 'strictest' secrecy in dealing with allegations of sexual abuse and threatens those who speak out with excommunication.
[6] In 2001, as the decades-long pattern of priests' abuse first started to be reported, he wrote a letter to bishops reminding them that church policy since 1962 mandated that the church itself would investigate, bypassing worldly police authorities, and required victims of priestly abuse to take an oath of secrecy.
[7] You may observe that faith and knowledge are related as the scales of a balance; when the one goes up, the other goes down. The fruits of Christianity were religious wars, butcheries, crusades, inquisitions, extermination of the natives in America, and the introduction of African slaves in their place. The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it. The priest are the brokers for it. Any dogma, no matter how extravagantly absurd, inculcated in childhood, is sure to retain its hold for life.
Hầu hết các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo [Công giáo], nhất là các tín đồ Việt Nam, sống qua suốt cuộc đời mà không hề biết đến thực chất Ca-tô Rô-maGiáo của họ là như thế nào. Họ không hề biết đến lịch sử thực sự của Giáo hội Ca-tô, không biết đến vấn đề đạo đức của các Giáo hoàng cũng như các bậc chăn chiên ở dưới, từ Hồng Y xuống tới các linh mục. Vì vậy, suốt cuộc đời họ sống trong một ngục tù tâm linh u mê tăm tối của một đức tin mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Chúng ta còn nhớ một câu nói thời danh: “Giáo hội không sợ bất cứ thế lực nào khác mà chỉ sợ sự thật”. Cho nên, Giáo hội đã tìm đủ mọi cách để che dấu những sự thật về Giáo hội, giữ tín đồ trong vòng u mê tăm tối của một đức tin mà ngày nay đã không còn giá trị, nhờ đó mà Giáo hội đã có thể vượt qua được bao nhiêu biến động tưởng không thể cứu vãn được, và tiếp tục ngự trị trên đám tín đồ đông đảo thấp kém ở dưới. Chính sự ngu dốt và cuồng tín của đám tín đồ thấp kém ở dưới đã duy trì sự tồn tại của Giáo hội.
Cách đây hơn 1 thế kỷ, Robert G. Ingersoll đã giải thích điều này. [Robert G. Ingersoll được coi như là một nhà hùng biện và nhà tự do tư tưởng vĩ đại nhất của nước Mỹ {A celebrated orator and free thinker of 19th century America]. Ông ta là bạn của 3 Tổng Thống Hoa Kỳ, là người đã có công nhất trong việc làm nở rộ quyền tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. [A personal friend of three U.S. presidents, the individual most responsible for the flowering freethought in the United States]. Bức tượng của ông, ghi công ông, nay được đặt ở Periora, tiểu bang Illinois. Edgar Lee Master, một thi sĩ, đã đưa ra nhận xét: "Đối với những người yêu chuộng tự do ở khắp nơi, nhất là đối với giới trẻ ở Hoa Kỳ không biết đến Robert G. Ingersoll, hãy nhớ rằng ông ta đã giúp để cho quý vị được tự do."[1]. Ingersoll đã nói thẳng trước một cử tọa đông đảo mà mỗi người phải bỏ ra $2 (năm 1890) để nghe ông diễn thuyết (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140):
Ca-tô Rô-maGiáo thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt.(cunning) [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.]
Điều này thật quả không sai, số đông tín đồ thấp kém thì chẳng biết gì, còn giới chăn chiên, không phải là không biết, nhưng vì quyền lợi tinh thần và vật chất trên đám giáo dân thấp kém ở dưới, nên vẫn bưng bít, dấu kín những sự thật về Giáo hội và thực chất đức tin Ca-tô Giáo trước đám tín đồ. Một tài liệu điển hình về kết quả nghiên cứu của Russell Shorto trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth), trang 14, viết như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.[2]
Vì tiếp tục sống trong bóng tối nên chúng ta thấy trên vài trang nhà của Ca-Tô Rô-maGiáo Việt Nam vẫn huênh hoang nói lên câu vô nghĩa: Giáo hội Ca-tô Rô-ma là “Giáo hội mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền” dù rằng hàng ngàn công cuộc nghiên cứu về Ca-tô Rô-maGiáo của các học giả Tây phương, gồm cả các bậc chăn chiên như Linh mục, và cao cấp hơn như Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, khoan kể đến các nhà thần học nổi danh thế giới như Hans Kung, Uta-Ranke Heineman, John Shelby Spong v..v.. đã chứng minh dứt khoát là Ca-tô Rô-maGiáo tuyệt đối không có cái gì có thể gọi là “mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền”. Chúng ta hãy điểm sơ vài nét về lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, về đạo đức của các Giáo hoàng và giới chăn chiên.
Về Lịch Sử :
Về lịch sử thì hầu hết các tín đồ Ca-tô không biết đến một sự kiện vang động thế giới: ngày Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2000, trong một cuộc “Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con chiên, người Chủ Chiên, Giáo hoàng John Paul II, đại diện cho Ca-tô Rô-maGiáo gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, cùng với 5 hồng y và 2 tổng giám mục, trong đó có tồng giám mục Nguyễn Văn Thuận của Việt Nam, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân loại của Ca-tô Rô-maGiáo, và xin thế giới tha thứ cho những hành động tàn bạo đối với nhân loại của những con cái giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo. Những hành động này, như được nhắc tới, hết sức đại cương trong những lời xưng thú 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo như sau:
1. Xưng thú “tội ác chung”.
2. Xưng thú “tội ác trong khi phục vụ “chân lý””. [Nhân danh chân lý Ca-tô, Giáo hội đã phạm phải những tội ác vô tiền khoáng hậu đối với nhân loại như: Thánh Chiến, Tòa án xử dị giáo, săn lùng và thiêu sống phù thủy v..v..]
3. Xưng thú “tội ác đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”. [Các giáo hội Ki Tô như Ca-tô Rô-maGiáo, Chính Thống Giáo, Phản Thệ Giáo (Tin Lành) đều chém giết nhau không nương tay. Nguyên ở Croatia trong đệ nhị thế chiến, chính quyền Ca-tô đã giết khoảng 700.000 người Serb theo chính thống giáo (orthodox) và gypsy.]
4. Xưng thú “tội ác trong sách lược bách hại dân Do Thái”. [Giáo hội vu cho người Do Thái cái tội giết Chúa , do đó đã bạo hành người Do Thái suốt bao nhiêu thế kỷ, đưa đến cao điểm là Hitler của Ca-tô Giáo đã giết 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến]
5. Xưng thú “tội ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”. [Giáo hội đã làm tiên phong hoặc theo gót các thế lực thực dân đi xâm chiếm các nước kém phát triển và thực hiện những lời thú tội trên. Ở Việt Nam, xin đọc “Phép Giảng 8 Ngày” của tên thừa sai thực dân Alexandre de Rhodes, hay đọc những Kinh Nhật Khóa của Giáo hội Ca-tô Việt Nam].
6. Xưng thú “tội ác trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.
7. Xưng thú “tội ác trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”. [Cưỡng bách người khác theo đạo, bạo hành những người theo đạo khác v…v…]
Chi tiết về những núi tội ác trên đã được trình bày tạm gọi là đầy đủ trên trang giaodiemonline qua một loạt bài như sau:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=55
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=52
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=51
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=361
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=360
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=490
http://giaodiemonline.com/2007/feb/hacsu4.htm
http://giaodiemonline.com/2007/07/cghacsu5.htm
Bất kể giáo hội có giải thích hành động xưng thú tội lỗi của giáo hoàng như thế nào đi chăng nữa, là hành động can đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống hối của Ca-tô Rô-maGiáo, là để thanh tẩy ký ức hay để tiến tới sự hòa hợp tôn giáo v…v…, các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo vẫn không thể nào giải đáp được thỏa đáng những câu hỏi như:
Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như vậy? trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm? Vậy vô thần so với hữu thần, đằng nào thánh thiện hơn? Tại sao cho tới ngày nay mà những người Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam vẫn ngu ngơ luôn luôn mở miệng ra là lên án vô thần, làm như vô thần đồng nghĩa với vô đạo đức, vô tôn giáo, trong khi, xét theo lịch sử, chính cái tôn giáo của họ, Ca-tô Rô-maGiáo, là vô đạo đức và vô tôn giáo vào bậc nhất thiên hạ.
Những câu hỏi này sẽ luôn luôn ám ảnh những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo có đầu óc, còn đôi chút lương tri và liêm sỉ. Vì một tôn giáo mà gây ra nhiều tội đại ác như tra tấn, tù đầy, thiêu sống v..v.., giết hại hàng chục triệu sinh mạng vô tội, nếu không muốn nói đến cả trăm triệu, gồm cả đàn bà và trẻ con, bất cứ vì lý do nào, thì không thể được coi là một tôn giáo, theo bất cứ nghĩa nào. Đó chẳng qua chỉ là một tổ chức núp sau bình phong tôn giáo để duy trì những quyền lực thế tục. Lương tâm trí thức của họ bắt họ phải trực diện với sự thực này. Phải chăng họ đã bị lừa dối từ bao thế kỷ nay bởi một cái bánh vẽ trên trời mà không cần đếm xỉa gì tới vấn đề đạo đức, luân lý? Phải chăng họ đã bị nhào nặn từ nhỏ để có một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ ham hố một sự “cứu rỗi” tưởng tượng cho riêng mình mà không cần biết đến cái cộng đồng tôn giáo của mình ra sao? Phải chăng họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ đến độ chỉ còn có thể tin một cách mù quáng, không còn khả năng suy nghĩ để tìm ra lẽ thật? v..v..
Tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo muốn tôn vinh quyền năng của Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và Giáo hoàng thế nào thì tôn vinh, nhưng họ không bao giờ có thể xóa bỏ được những sự thực lịch sử về Công Giáo, những sự thực đã làm cho cả thế giới phải ghê sợ, những sự thực đã bị phanh phui đến mức độ giáo hội không thể làm gì khác là đưa giáo hoàng và bộ tham mưu của ông ta ra xưng tội cùng thế giới loài người về những tội ác của Giáo hội Ca-tô Rô-ma để xoa dịu dư luận thế giới.
Những tội lỗi của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại, qua lời xưng thú tội lỗi của tập đoàn Vatican, sẽ ám ảnh lương tri của người Ca-tô Rô-maGiáo suốt đời, không phải vì họ phải chịu trách nhiệm về những việc làm của giáo hội trong quá khứ, mà vì dù muốn dù không, họ cũng thuộc một đoàn thể có một lịch sử quá đen tối, trái ngược với những lời tuyên truyền giả dối đã tạo thành niềm tin của họ. Từ nay, họ không còn có thể tự đề cao mà không ngượng miệng những điều họ được nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ để biến họ thành những kẻ cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt, hợm hĩnh và huênh hoang, ví dụ như Ca-tô Rô-maGiáo là một tôn giáo thánh thiện, duy nhất thiên khải, cao quý hơn tất cả các tôn giáo khác, hoặc như, người trong đạo là những người lành thiện, đạo đức hơn tất cả những người “ngoại đạo” v…v… Thế giới đã thấy rõ từ lâu, tất cả những lời tự tôn, tự ca tụng, tự tôn vinh v..v.. của Giáo hội Ca-tô chỉ là những lời tự nhận tuyên truyền huênh hoang giả dối cho đám tín đồ thấp kém, trái hẳn với bản chất mê tín, hoang đường, thấp kém, tàn ác v..v.. của giáo hội Ca-tô.
Tưởng chúng ta cũng nên biết, khi Giáo hoàng John Paul II chính thức xưng thú 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại và xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo bằng những lời lẽ rất đại cương như trên, thì ký giả Lewis Weinstein đã viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000, như sau: "Hầu hết các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo không biết đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo) mà Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào." [3]
Sự thật đó như thế nào? Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo, chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong vài câu ngắn gọn: 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại nói chung, Việt Nam nói riêng, có thể mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
(Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)
bởi vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh phúc âm, chân lý của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu mạo của các tôn giáo khác, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền văn hóa phi Ki-Tô v..v… theo sách lược truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo trên thế giới. Một Giáo Hội có một lịch sử các tội ác như vậy thì khó có thể quan niệm đó là một Giáo hội “thánh thiện” hay là một “hội thánh” mà các tín đồ thường được nhồi sọ để tin là mình đang ở trong một “hội thánh” thánh thiện, tông truyền...
Về Đạo Đức Của Các Bậc Chủ Chăn: Giáo Hoàng:
Năm 1987, Tiến Sĩ Arthur Frederick Ide đã xuất bản cuốn sách nhan đề “Vạch Trần Các Giáo Hoàng: Một Nghiên Cứu Thẳng Thắn về Tình Dục Và Đồi Bại Trong Vatican” (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex and Corruption in the Vatican. AA Press, TX, 1987) với Lời Đề Tặng các tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo như sau:
Hiến Tặng tất cả những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo
- Những người thường đi xưng tội với các linh mục, vốn là những người cũng phạm tội như họ.
- Và tuân phục một Giáo Hoàng, Người tự cho là không thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao
- Có quyền giữ trong tay Chìa khóa mở cửa thiên đường.
- Nhưng lịch sử đã chứng tỏ Thực sự chỉ mở những cánh cửa vào nhục dục, trụy lạc, và bạo lực.
[Dedicated To All Roman Catholics s
- Who confess their sins to priests -Who do as they do, And
- Who believe in a Pope, Who claims to be infallible Primary, and supreme
- Having the power to the keys to the kingdom of heaven
- Which hictory shows actually open the doors of sex, vice, and violence]
TTín đồ Ca Tô giáo ở Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”, tin rằng giáo hoàng đương nhiên phải là bậc thánh thiện (holy), vì giáo hội dạy rằng, giáo hoàng được chọn là do kết quả hướng dẫn của thánh linh cho các hồng y, những người có quyền chọn lựa, quyết định ai là giáo hoàng. Vả chăng, Giáo hội cũng bắt các tín đồ Ca Tô giáo nói chung, Ca Tô giáo Việt Nam nói riêng, phải tin rằng giáo hoàng là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ) trên trần, nắm trong tay chìa khóa của thiên đường (mù), có quyền cho họ lên thiên đường hay tuyệt thông họ. Tất cả những niềm tin này đều do các “bề trên” của họ cấy vào đầu óc từ khi còn nhỏ.
Tại sao họ có thể tin vào những điều lừa dối rất trắng trợn này. Trách nhiệm chính là do các “bề trên” của họ, những người đã nhốt họ vào vòng mê tín qua một chính sách nhồi sọ tinh vi để dễ bề ngự trị trên họ. Có thể nói rằng, các tín đồ tin là vì trong đầu óc họ hầu như có một cái “gen” để tin vào bất cứ điều gì, và lẽ dĩ nhiên, vì chính sách của giáo hội, họ không bao giờ được dạy hay được quyền biết gì về lịch sử các giáo hoàng trong giáo hội của họ. Lịch sử các giáo hoàng Ca Tô đã viết rõ: có những giáo hoàng do vua chúa chỉ định, có những giáo hoàng giết nhau để lên làm giáo hoàng, có những giáo hoàng do những cô gái điếm dựng lên, có những giáo hoàng là trẻ vị thành niên mới có 12 tuổi, có những giáo hoàng là con hoang của một giáo hoàng, hay là con của giáo hoàng loạn luân mà sinh ra v..v.. (Xin xem thêm Decline and Fall of the Roman Church của Malachi Martin, một linh mục cởi áo, từng dạy Thần học Công giáo tại Vatican).
Ngoài ra, Những sự kiện này sẽ được chứng tỏ rõ ràng thêm qua một số tài liệu sau đây.
Trước hết, tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh [Deceptions and Myths of the Bible, trang 463-468] của Lloyd M. Graham. Đây chỉ là một đoạn tóm tắt một số sự kiện liên quan đến chế độ giáo hoàng. Chi tiết về những sự kiện này sẽ được bổ túc qua những tài liệu của các vị có thẩm quyền trong giáo hội Ca Tô. Phần trích dẫn này chỉ là một phần trong bài nghiên cứu (với nguyên bản Anh ngữ) về Lịch sử các Giáo hoàng đăng trên http://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN20.php
Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng tôi trình bày ở đây là chủ ý đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô nhục. Lý do để đưa ra mặt này là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn phết mặt kia và đưa cao nó lên như là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ dạ, cả tin. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là cho những người đang sống trong sự nô lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo. Đối với những người này, một ngàn năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt.
Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học thuật Ca-tô Rô-maGiáo. Không ở đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các giáo hoàng đồi bại.
Những tội ác của các giáo hoàng là do những người khác làm và “không thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị giáo là một “điều cần thiết của thời đại”, những sự trụy lạc của giáo hoàng chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”. Những hồ sơ ghi chép sự việc đương thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu trên, và những điều ghi chép này không phải là do những kẻ thù của giáo hội viết, mà phần lớn là do những sử gia của chính giáo hội gồm có những giáo hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục Liutprand, linh mục Salvianus, và các sử gia như Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, và nhiều người khác. Đây chính là những người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái mặt đen tối và ô nhục của giáo hội. Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội, cho rằng giáo hoàng đã được thánh linh tuyển chọn và hướng dẫn.
Trong “thời đại tăm tối” (the dark ages) những giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10 giáo hoàng bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 giáo hoàng bị giết trong vòng hơn 100 năm. Giáo hoàng Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo hồng y Baronius và Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm. Năm 708, Toto, một nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho anh hắn được bầu làm giáo hoàng. Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau đó bị Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra. Rồi Christopher cùng con của hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory. Hai đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục. Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để giết Leo III khi ông ta đi dạo phố. Việc không thành, chúng đích thân ra tay, kéo Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó. Chắc độc giả cho rằng đó là chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng. Nhưng không phải vậy, đó là dựa theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các giáo hoàng.
Đó chỉ là chuyện thường tình của thời đại. Giáo hoàng Leo V bị một người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt tên này cũng bị hạ bệ và cái tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã nói ở trên, Sergius III, lên thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores). Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”. Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người này.)
Theo sử liệu, hồng y Francone cho người thắt cổ giáo hoàng Benedict VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một con quỷ khủng khiếp vượt mọi con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert. Hắn ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo hoàng Boniface VIII.. Thật vậy! Để chiếm được cái mũ tiara (mũ ba tầng của giáo hoàng. TCN) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở hơi Celestine V. Nhưng hắn cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì ngay sau đó hắn bị những người La Mã truất phế. Trong triều đại của một giáo hoàng kế vị, Clement V, sau khi chết hắn còn bị mang ra xét xử và được xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết người. Và khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra rằng Clement đã quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very clement” vì clement có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền tương đương với 5 triệu dô-la, tiền của giáo hoàng. Vào thời gian này, triều đình của giáo hoàng được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng lúc có hai người kế thừa, một người ở Avignon và một người ở Rô-Ma. Nhưng vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory XII, Alexander V, và John XXIII. Về sau John XXIII bị từ khước, tên thánh bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII) được giáo hoàng kế vị Pius XII lấy lại.
Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán chứng thư xá tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber. Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.” Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (the princes of the church: nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.
Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau: “..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng y..
Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần truồng trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục, linh mục] và vị đại diện của Chúa (giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”
Đó là những ông hoàng của giáo hội trong những ngày đó. Trong thời Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là một tập thể mà người ta có thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử. Chiếm được một ngôi vị hồng y chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc. Đức tính, sự hiểu biết, và khả năng không dự phần nào trong đó. Thật vậy, những đứa trẻ mười bốn mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y. Giáo hoàng Paul III cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y.. Paul IV cũng cho một đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng y tuy chính ông ta nói “cánh tay của nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”
Vậy mà đó là những người, với sự trợ giúp của Thánh Linh, tuyển chọn giáo hoàng.
Tại sao cái lịch sử ô nhục này không được tín đồ biết đến như là lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt? Tại sao các tín đồ Công giáo không được dạy rằng chính những con người như trên đã đưa đến sự cải cách chứ không phải là do “con quỷ Luther đó.”? Giáo phái Tin Lành nổi giậy không chỉ vì Luther mà vì sự phản đối tội ác và sự đồi bại của giáo hội Công giáo trong nhiều thế kỷ. Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến toàn thể Âu Châu.
[Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, trang 463-468]
Trên đây chỉ là sơ lược về những sự đồi bại cùng cực của một số không nhỏ “đức thánh cha” của giáo dân Việt Nam, những “đại diện của Chúa” trên trần, những người được Thánh Linh nhập vào tập đoàn hồng y trong sự tuyển chọn, trong lịch sử Ca Tô Rô-maGiáo. Đó là tôi chưa đề cập đến những hoạt động lừa đảo, gian dối, thế tục, thực dân của “hội thánh” liên hệ đến những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa v..v.. trên khắp thế giới. Những vấn đề này cần riêng một cuốn sách mới có thể tạm gọi là đầy đủ.
Về Đạo Đức Của Các Bậc Chăn Chiên: Hồng Y… và Linh Mục:
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=494
Linh Mục Là Ai? Đó là đầu đề một bài viết trên tiengnoigiaodan.net. Tác giả bài viết này là Linh mục Giuse Vũ Đức ở Detroit. Linh mục thực sự là ai? Ngày nay chúng ta không thiếu gì tài liệu, kể cả tài liệu của những vị đã ở trong nghề Linh mục nhiều chục năm như Joseph McCabe, James Kavanaugh, hay Charles Chiniqui. Nhưng chúng ta thử xem Linh Mục Vũ Đức đã giảng “Linh Mục là ai?” như thế nào. Đây là nguyên văn câu kết trong bài “Linh Mục Là Ai?” của Linh mục Vũ Đức trên tiengnoigiaodan.net:
“LINH MỤC là ai? Trả lời một cách ngắn gọn và đầy đủ Ngài là CHÚA KITÔ THỨ HAI (Alter Christus) như thế thưa Cha mới [được phong linh mục]: từ nay Cha là Chúa KITÔ.”
Chắc chắn là các con chiên đọc câu này là thấy vui rồi vì họ luôn luôn được Chúa KITÔ, hay ít nhất cũng là CHÚA KITÔ THỨ HAI, dạy bảo cho họ trở thành đúng là con chiên. Là người ngoại đạo nhưng tôi đọc cũng thấy vui, vui đến nỗi phải phá ra cười. Tôi mang câu này đi khoe với một số bạn bè thì ai cũng phá ra cười. Vui thì vui thật nhưng cái đầu óc dị giáo của tôi lại có vài thắc mắc, tôi hi vọng linh mục Vũ Đức cũng như bất cứ người Ca-tô nào có thể giải đáp dùm những thắc mắc cho tôi được không?
Trước hết là, CHÚA THỨ NHẤT đã chết cách đây gần 2000 năm rồi VÀ CHƯA BAO GIỜ TRỞ LẠI DÙ ÔNG TA HỨA HẸN VỚI MỘT SỐ TÍN ĐỒ LÀ SẼ TRỞ LẠI NGAY KHI HỌ CÒN SỐNG [Chắc Linh Mục Vũ Đức cũng đã đọc những đoạn này trong Tân Ước? có trích dẫn trong một phần sau], vậy ngày nay chúng ta chỉ còn những CHÚA KITÔ THỨ HAI, rất nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI trên thế giới, đủ mọi quốc tịch, nói đủ thứ tiếng, từ mũi lõ mắt xanh đến da vàng mũi tẹt, từ đen như củ súng đến lờ lờ như thổ dân Da đỏ v…v….Tốt lắm!Vì càng có nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI bao nhiêu càng tốt cho tín đồ Ca-tô bấy nhiêu, nhất là tín đồ Ca-tô Việt Nam, có phải như vậy không?Linh mục Vũ Đức nói không sai, ít ra là đối với các tín đồ Ca-tô Việt Nam, vì tôi còn nhớ trước đây có ông giám mục ở Việt Nam khuyên các con chiên phàn nàn mấy ông CHÚA KITÔ THỨ HAI làm bậy ở Việt Nam là:“Các con đừng nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”
Nhưng tôi nghĩ đến các CHÚA KITÔ THỨ HAI đã đi hiếp dâm các “sơ của Chúa” trong 23 quốc gia trên thế giới, có nơi còn bắt họ đi phá thai.Linh mục Vũ Đức cũng còn viết: từ nay Cha là Chúa KITÔ.Vậy Chúa nào đi hiếp dâm?Chúa thứ nhất hay Chúa thứ hai hay cùng là một Chúa?Không biết Tam Đoạn Luận sau đây có đúng hay không?
- Người đi hiếp dâm các bà xơ là Linh Mục.
- Mà Linh Mục là Chúa Ki Tô.
- Vậy thì chính Chúa Ki Tô đã đi hiếp dâm các bà xơ.
Tôi đặt vấn đề để cho Linh Mục Vũ Đức thấy là ông ta đã viết láo và mạ lị chính Chúa của ông ấy, chứ không phải là tôi cố ý phỉ báng Chúa Ki Tô đâu.Tôi kính trọng Chúa lắm cho nên mới phải vạch ra luận điệu sai lầm của Linh mục Vũ Đức, ngõ hầu cứu vãn lại danh dự và sự vinh quang cho Chúa.
Tôi cũng nghĩ đến hiện nay có trên 5000 CHÚA KITÔ THỨ HAI đã bị truy tố về tội cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ.Có nhiều CHÚA KITÔ THỨ HAI đang ngồi tù, vì tất cả vẫn còn mang chức linh mục trên người, và các giáo hội địa phương đã phải bỏ ra từ 2 đến 3 tỷ Mỹ kim để bồi thường cho những nạn nhân tình dục của các CHÚA KITÔ THỨ HAI hay chính là CHÚA KI TÔ.
Tôi cũng lại nghĩ đến các tín đồ Việt Nam thường gọi các CHÚA KITÔ THỨ HAI Việt Nam khác là “CHA”, và hình như các “cha” này đến Vatican cũng phải quỳ lạy trước mộtCHÚA KITÔ THỨ HAI mũi lõ mắt xanh cao cấp hơn nhưng lại vô đạo đức tôn giáo như Giáo hoàng Benedict XVI.
Tại sao lại là vô đạo đức tôn giáo?Vì khi còn là Hồng Y Thiết Giáp Ratzinger, nay là Giáo hoàng Benedict XVI, ông ta đã đưa ra một nhận định mà không ai có thể cho là có đạo đức tôn giáo, về Phật Giáo như sau: “Buddhism is a sort of auto-erotic spirituality” (Phật giáo là một loại tâm linh tự dâm), và ngay gần đây ông ta đã mượn lời của một ông Vua vùng Byzantine vào thế kỷ 14 để đả kích giáo chủ Hồi Giáo Muhammad là “ác và vô nhân đạo, chủ trương bành trướng tôn giáo bằng bạo lực” (Show me just what Muhammad brought that was new, and there you will find things only evil and inhuman, such as his command to spread by the sword the faith he preached).Thế giới Hồi Giáo lên tiếng phản đối, nhiều kẻ cuồng tín đốt hình nộm của Benedict XVI, ném các túi sơn vào căn nhà nơi sinh của Ratzinger ở Bavaria (Đức quốc), đòi Benedict XVI phải đích thân xin lỗi, và dọa sẽ tuyệt giao với Vatican.
Đối với đám tín đồ thấp kém, từ đời này sang đời khác, thì họ đã được Giáo hội nhồi sọ qua những cái loa của các bậc chăn chiên, coi họ như là các bậc thánh thiện và không mấy tin ở cái mặt trái của giới Linh mục. Nhưng đối với thế giới Tây phương, cái nôi của Ca-tô Rô-maGiáo trước đây, thì quan niệm của giới trí thức đối với giới Linh mục có thể nói là rất tiêu cực vì họ đã hiểu rõ bản chất xảo quyệt (Ingersoll) của giới này.ày.
۞
Chúng ta hãy điểm qua vài nhận định điển hình về linh mục của một số danh nhân trí thức Âu Mỹ:
Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa Lan: Người nào đọc lịch sử giới Linh mục không đọc gì khác ngoài sự gian giảo và điên rồ của các giám mục và linh mục. (He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and folly of bishops and churhmen.)
John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh: Ca-tô Rô-ma là một tôn giáo không gì hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the command of Chist himself.)
Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia Anh: Trong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới Linh mục là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)>.)
Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh: Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin, (Priests can lie, and the mob believe, all over the world).
Đại Văn Hào Voltaire (1694-1778): Lời của Chúa là lời của các linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa là xúc phạm các linh mục; tin vào Chúa là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)
Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh: Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của các Linh Mục thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than their virtues.)
Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ: Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do. (In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty).
James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ: Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới Linh mục, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ; sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial.What has been its fruits?More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)
Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp: Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức: Ca-tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it.The priest are the brokers for it)
Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.)
Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Công Giáo, chỉ còn lại Vatican ngày nay): Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.)n>.)
Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ: Một thầy giáo giỏi có giá trị bằng1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.)
William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ Lan: Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Linh mục Ca-tô Giáo hay Mục sư Tin Lành,đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)
Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên tên linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.) >.)
Các tín đồ Ca-tô đưa ra những lời rất ngớ ngẩn để bào chữa cho những sự vô đạo đức của giáo hoàng và giới chăn chiên như sau: “Những người đó chẳng qua cũng chỉ là con người chứ giáo hội vẫn luôn luôn thánh thiện” Họ quên rằng, Giáo hoàng không phải là người như mọi người mà là “đại diện của Chúa”, và các linh mục cũng không phải là những người thường như mọi người mà là các “Chúa thứ hai” hay chính là Chúa, vì họ có quyền tha tội cho ai thì tha, cầm giữ ai thì cầm giữ. Lẽ dĩ nhiên tôi không có cách nào có thể đưa ra tất cả những tài liệu về “Linh Mục Là Ai” vì lẽ dĩ nhiên là tôi không biết hết, mà chỉ biết có một phần, một phần mà tôi cho là đã quá đủ rồi. Nhìn vào những tin tức trên những diễn đàn thông tin quốc tế về những tội ác tình dục của Linh mục, cũng như đọc một số sách viết về Linh mục bởi các Linh mục, chúng ta có thể dư biết thực chất Linh mục là như thế nào.
Có phải là vô cớ không mà, “Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Ca –tô Rô-ma, trong cuộc Cách Mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca-tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v..” [Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]
Người đọc sử không thể không tự đặt cho mình một câu hỏi: Nước Pháp vào thế cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Ca-tô Giáo. Nền giáo dục quốc gia nằm trong tay giới giáo sĩ. Nếu Ca-tô Giáo thực sự là một lực lượng tinh thần của dân chúng, nếu Ca-tô Giáo là một “hội thánh” được chỉ đạo về luân lý đạo đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Ca-tô Giáo thực sự mang phúc lợi đến cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra những vụ tàn sát như trên sau cuộc cách mạng 1789? Câu trả lời thật là đơn giản. Vì Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia. Chúng ta có thể nhận rõ hiểm họa này qua vài hành động của giới trí thức Pháp vào thời đó.
Nhà đại văn hào Victor Hugo đã đưa ra nhận định: “Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.” [4]. Các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai phóng, tiến bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục của giáo hội Ca-tô mà họ cho là có mục đích “dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và chống lại thời đại của chúng” [Élever les enfants contre leur pays et contre leur temps]; và họ đã thành công trong việc “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh mục, vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” [Arracher l’enfant au moine, dévoiler les hypocrisies de l’Église].
Sau cùng, tôi muốn nói đến vấn đề vô đạo dức của Vatican từ xưa tới nay, và Giáo hoàng Benedict XVI cũng không ngoại lệ trong vụ bao che các linh mục loạn dâm. Giáo hội đã biết vấn nạn các linh mục loạn dâm từ nhiều thập niên trước nhưng chính sách bao che của Giáo hội đã giữ kín những vụ này cho đến khi vụ nổ tình dục của giới giáo sỉ Ca-tô ở Boston vào đầu thập niên 2000. Hồng Y Bernard Law ở Boston, người vừa được giáo dân Việt Nam cúi đầu đón tiếp tưng bừng khi ông ta đến Việt Nam trong “năm thánh” của họ, chính là người đã theo chính sách mật của Vatican để bao che những linh mục loạn dâm dưới quyền của ông ta. Cho đến khi không thể che dấu được nữa và vì mang quá nhiều tai tiếng thì ông ta được Vatican gọi về Vatican, trao cho một chức vụ cao cấp. Rồi được đi Việt Nam dự «năm thánh»
۞
Sau đây là hai tài liệu trên http://www.bibliotecapleyades.net/: qua hai bài:
- “Vatican told bishops to cover up sex abusebuse”
(Vatican bảo các Giám mục hãy bao che vụ lạm dụng tình dục) của Antony Barnett
- “A Pope [Beneict XVI] To Be Ashamed of”
(Một Giáo hoàng đáng lấy làm xấu hô3” của Helen và Harry Highwater
Hai bài này dài và chứa nhiều chi tiết động trời nhưng tôi chỉ trích dẫn hai đoạn ngắn quan trọng.
Tờ Observer đã lấy được một hồ sơ mật vốn có từ 40 năm trước trong văn khố mật của Vatican [from the secret Vatican archive], hồ sơ mà các luật sư cho rằng một “kế hoạch để lừa dối và che dấu” [a blueprint for deception and concealment]. Một luật sư người Anh của những nạn nhân tình dục của Giáo hội Ca-tô mô tả hồ sơ đó như là sẽ nổ lớn. [explosive].
Tài liệu 69 trang viết bằng tiếng Latin có dấu ấn của Giáo Hoàng John XXIII đã được gửi tới mọi giám mục trên thế giới, chắc chắn là có giám mục Việt Nam [was sent to every bishops in the world]. Huấn thị trong tài liệu này là hoạch định một chính sách giữ tuyệt mật đối với những vụ lạm dụng tình dục và đe dọa kẻ nào nói ra sẽ bị vạ tuyệt thông [5] Tài liệu cũng kêu gọi các nạn nhân tình dục phải thề giữ kín chuyện bị xâm phạm tình dục của họ [to take an oath of secrecy].
Và Giáo hội đã theo răm rắp chính sách vô đạo đức đó cho đến ngày nay. Ratzinger phải chịu trách nhiệm trong việc đối phó với xì-căng-đan tình dục mà hàng trăm linh mục lạm dụng những đứa trẻ, lợi dụng cái cổ cồn trắng của các linh mục [hundreds of priests who molested children under the cover of their clerical collarsars]. Vậy thì ông ta đã làm gì?
Năm 2001, sau các vụ linh mục loạn dâm trong nhiều thập niên cuối cùng bị phanh phui, ông ta đã viết một bức thư cho các giám mục, nhắc họ rằng, lệnh của chính sách giáo hội từ năm 1962 [trong văn kiện mật của Giáo hoàng John XXIII đã nói ở trên] là chỉ Giáo hội mới có quyền điều tra [những vụ lạm dụng tình dục], tránh qua những chức quyền cảnh sát thế giới, và đòi hỏi các nạn nhân tình dục phải thề là giữ kín [6]
Đúng ra là Ratzinger đã ra lệnh một chính sách bao che. [In effect, Ratzinger ordered a cover-up.]
Đó là vài vấn đề đạo đức trong Giáo hội “thánh thiện” Ca-tô, của các “Đức Thánh Cha” và các “Chúa thứ hai” của Giáo dân Việt Nam.
۞
Để loại bỏ những lời chụp mũ vu vơ là người viết bài này “chống Công giáo” hay “làm tay sai cho Cộng sản”, tôi xin quý độc giả ghi nhận một điểm, và tôi xin nhấn mạnh điểm này: Trong tất cả tài liệu dùng trong bài viết này, tuyệt đối không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản, mà là tài liệu của giới trí thức cũng như trên báo chí Tây phương. Bài viết này chỉ có tính cách nghiên cứu lịch sử, những trang sử mà tôi nghĩ rằng trong thời đại ngày nay, các tín đồ Ca-tô Giáo Việt Nam cũng như những người ngoại đạo cần phải biết rõ về một tôn giáo chiếm 7% dân số Việt Nam, chứ tuyệt đối không nằm trong sự tranh chấp tôn giáo hay ý thức hệ. Trong thời đại ngày nay và trong chiều hướng đang đi lên của Việt Nam hội nhập vào cộng đồng thế giới tiến bộ, việc nghiên cứu lịch sử thế giới, nhất là về tôn giáo, để mở mang dân trí người dân là một việc cấp bách không thể thiếu sót.
Lịch sử đơn thuần chỉ là những sự kiện trong dân gian được ghi lại như chúng là như vậy. Còn ai muốn phủ nhận lịch sử ra sao lại là một chuyện khác.
Để kết luận, tôi xin được trích dẫn hai nhận định sau đây của Leo Tolstoy, một đại văn hào Nga, và của Arthur Schopenhauer trong số hàng trăm các nhận định tương tự khác của giới trí thức Tây phương.
Leo Tolstoy : Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo hội Ca-tô là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành [I am convinced that the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.]
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức: Bạn có thể ghi nhận là đức tin và kiến thức thì liên hệ với nhau như là hai cán cân; khi cán cân bên này lên thì cán cân kia xuống. Những hoa trái của Ki Tô giáo là chiến tranh tôn giáo, những cuộc tàn sát, những cuộc chiến tranh thập giá, những tòa án xử dị giáo, sự tiêu diệt các thổ dân Mỹ, và đưa những nô lệ Phi Châu vào thay thế. Ca-Tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường. Mọi tín lý, bất kể là vô lý tới đâu, khi cấy vào con người từ nhỏ, chắc chắn là ở trong đó suốt đời [7]
Xét đến lịch sử ô nhục đẫm máu của Giáo hội Ca-tô qua những cuộc thánh chiến, tòa án xử dị giáo, săn lùng và thiêu sống phù thủy, cùng vấn đề đạo đức của một số không nhỏ giáo hoàng cũng như của giới chăn chiên, ai có thể phủ nhận những nhận định trên, xin mời lên tiếng.
[1] To the lovers of liberty everywhere, but chiefly to the youth of America who did not know Robert G. Ingersoll, remember that he helped to make you free.
[2] Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.
[3] Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor, archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.
[4] La civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion, deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres. L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos enfants: l’avenir
[5] The 69-page Latin document bearing the seal of Pope John XXIII was sent to every bishop in the world. The instructions outline a policy of 'strictest' secrecy in dealing with allegations of sexual abuse and threatens those who speak out with excommunication.
[6] In 2001, as the decades-long pattern of priests' abuse first started to be reported, he wrote a letter to bishops reminding them that church policy since 1962 mandated that the church itself would investigate, bypassing worldly police authorities, and required victims of priestly abuse to take an oath of secrecy.
[7] You may observe that faith and knowledge are related as the scales of a balance; when the one goes up, the other goes down. The fruits of Christianity were religious wars, butcheries, crusades, inquisitions, extermination of the natives in America, and the introduction of African slaves in their place. The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it. The priest are the brokers for it. Any dogma, no matter how extravagantly absurd, inculcated in childhood, is sure to retain its hold for life.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét