Lâu nay, "sốc văn hóa" đã trở thành khái niệm được sử dụng khá rộng rãi sau mỗi lần trong sinh hoạt xã hội xuất hiện một (các) sản phẩm hay hiện tượng tác động mạnh mẽ tới tâm lý tiếp nhận của con người. Sự quan tâm của hệ thống thông tin đại chúng tới các sự kiện thường được gọi là "sốc văn hóa" đã gây nên sự chú ý của dư luận. Và thực tế cho thấy, "sốc văn hóa" được sử dụng trên ý nghĩa rất rộng, từ một chương trình nghệ thuật đặc sắc, một tác phẩm điện ảnh chất lượng cao, một cuốn sách hay... tới mấy trò diễn lố lăng, rồi tệ bạo hành trẻ em, tình trạng bạo lực học đường, tội phạm gia tăng trong giới trẻ...
Như vậy xem xét kỹ sẽ thấy, khi đề cập tới "sốc văn hóa", trên hệ thống thông tin đại chúng, trong quan niệm của một số người đã có tình huống quy nạp khá nhiều sự vật - hiện tượng mang bản chất đối lập nhau vào nội hàm của một khái niệm, như: hay lẫn dở, tích cực lẫn tiêu cực, hấp dẫn lẫn phản cảm... Bởi trong các sự kiện được gọi là "sốc văn hóa", bên sản phẩm hay hiện tượng đem lại sự thích thú, hấp dẫn công chúng, lại có sản phẩm hay hiện tượng ngay khi xuất hiện đã bị xã hội phê phán, tẩy chay. Tình trạng này có nguyên nhân của nó, vì trong nhận thức của xã hội, dường như quan niệm về "văn hóa" và "phản văn hóa" vẫn chưa rạch ròi, đẩy tới sự nhầm lẫn.
Chỉ xét trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật, mấy năm qua đã có một số sự kiện làm xôn xao dư luận cả nước, thật sự là các cú "sốc" tích cực về mặt văn hóa đối với người đọc, người xem. Như các cuốn sách Nhật ký Ðặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai mươi... chẳng hạn. Ðây là hai tác phẩm có số lượng phát hành lớn, được công chúng đón nhận, ấn tượng của hai cuốn sách để lại trong công chúng hết sức đậm đà, lành mạnh. Tương tự như thế, các chương trình truyền hình trực tiếp tại thành cổ Quảng Trị, tại Ngã ba Ðồng Lộc,... đã được chờ đợi, tán thưởng nồng nhiệt. Ký ức về thời chiến tranh gian khổ mà hào hùng, đã đem tới cho người xem các cảm xúc không dễ có trong thời kỳ mà sự hối hả của cuộc mưu sinh có thể làm một số người sao lãng quá khứ.
Rộng hơn, trên bình diện xã hội, đã có rất nhiều sự kiện - con người mà mọi người nhìn thấy ở đó những tấm gương cần học hỏi. Ðó là các tỷ phú làm giàu từ hai bàn tay và trí tuệ của chính mình. Ðó là sau mỗi kỳ thi đại học, công chúng lại tỏ lòng mến trọng với các thí sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn vẫn thi đỗ điểm cao. Ðó là hình ảnh người thầy giáo mang trọng bệnh, hằng tuần phải đi hàng trăm cây số để chữa trị, song vẫn miệt mài trên bục giảng để truyền dạy Tư tưởng của Bác Hồ, để nuôi dưỡng tình yêu Tổ quốc trong người học... Có thể kể ra rất nhiều sự kiện - con người như thế trong cuộc sống hôm nay mà bản chất của chúng là "tính văn hóa", là giúp vào việc bổ sung, nâng cao, phát triển các giá trị chân - thiện - mỹ.
Ðối lập với các sự kiện kể trên, thời gian qua lại có một số sự kiện gây "sốc", làm cho dư luận phải phản ứng gay gắt, thậm chí là căm phẫn, chỉ vì chúng không giúp làm cho con người đẹp hơn, lương thiện hơn. Ðó là những cuốn sách dành cho trẻ em nhưng chứa đựng các hình ảnh bạo lực, phi luân và nhiều hành vi gợi dục do NXB Thanh Hóa và NXB Văn hóa - Thông tin phát hành. Không có lý do gì để bao biện cho sự vô trách nhiệm của một số người đã xuất bản các cuốn sách này. Ðây thật sự là đầu độc lớp trẻ, khuyến khích cái xấu, tác động tiêu cực tới thế giới tâm hồn của trẻ em. Rất tiếc, một nhà xuất bản của ngành văn hóa đã tham gia vào sự việc.
Dư luận không thể không đặt câu hỏi: Chẳng lẽ người ta chưa bao giờ nghĩ đến hậu quả xấu đối với xã hội khi đặt lợi ích kinh tế lên trên lợi ích văn hóa hay sao? Còn phải kể tới sự kiện gần đây có người đang tâm bỏ người bệnh từ trên xe cứu thương xuống lề đường rồi bỏ đi; rồi "clip sex" của một nữ diễn viên phát tán trên internet; rồi "đạo văn" để ngang nhiên trưng bày giữa Quốc Tử Giám; rồi có những câu văn vần tục tĩu lại được gọi là thơ; rồi một số tác phẩm văn xuôi với chuyện tình ái trần trụi, những câu chửi bậy, lời văng tục... Các hiện tượng trên rất thiếu tính văn hóa, nếu con người thiếu khả năng chọn lọc, để bị tiêm nhiễm và thực hành, thì sự lây lan sẽ đưa tới các tác động làm tha hóa chính bản thân con người.
Trong các giai đoạn lịch sử trước, sự bình ổn của các giá trị văn hóa truyền thống, xu hướng củng cố sự bình ổn cùng khả năng hạn chế của phương tiện truyền tải... hầu như rất khó tạo ra những "cú sốc" đối với xã hội. Ngày nay thì khác, một mặt xã hội đã có quan niệm đúng đắn về vai trò của văn hóa với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển, một mặt hệ thống giá trị văn hóa được mở rộng, nâng cấp, và quan trọng hơn là con người đã được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia sản xuất các giá trị văn hóa, để làm phong phú thế giới văn hóa của chính mình và cộng đồng. Tuy nhiên, các thuận lợi ấy lại vận hành trong bối cảnh mở cửa giao lưu, hợp tác kinh tế - văn hóa với thế giới hết sức đa dạng và phức tạp, một số giá trị văn hóa đã lỗi thời vẫn tồn tại dai dẳng, rồi sự chi phối của tính tự phát trong quá trình sản xuất đã đưa tới một số hạn chế trong khi phân biệt sự khác nhau giữa sản phẩm có tính văn hóa và sản phẩm có tính "phản văn hóa"...
Quá trình sản xuất văn hóa, trên phương diện nào cũng là quá trình sản xuất các giá trị nhằm phát triển và hoàn thiện con người. Quá trình đó gắn liền với khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, ngày càng bản chất hơn về tự nhiên, xã hội và con người. Kết quả của quá trình nhận thức, sản xuất đã đưa tới sự ra đời, hình thành, phát triển của hệ thống các giá trị chân - thiện - mỹ, đồng thời đặt con người vào xu thế tất yếu là phải "văn hóa hóa", phải làm cho bản thân trở thành con người văn hóa, phải tham gia xây dựng xã hội trở thành xã hội văn hóa.
Tuy nhiên, do yêu cầu riêng của lịch sử và do một số giới hạn của nhận thức, trong tiến trình văn hóa, dù có "mẫu số chung" và luôn nằm trong xu hướng đi lên, thì mỗi thời kỳ lại có tiêu chí văn hóa riêng và điều này, một mặt làm nên tính liên tục lịch sử của văn hóa, mặt khác lại đòi hỏi con người cần tuân thủ một số chuẩn mực riêng của mỗi giai đoạn.
Như với đạo đức chẳng hạn, nếu đạo hiếu là "mẫu số chung" của quan hệ giữa con cái với cha mẹ thì so sánh sự thực hành của quan hệ này giữa thời trung đại với thời hiện đại ở Việt Nam đã có một số điểm khác nhau. Ngày nay, nếu câu tục ngữ "Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra" vẫn giữ nguyên giá trị thì các câu tục ngữ "Mẹ già ở tấm lều tranh - Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con", "Con gái thì gả chồng gần - Có bát canh cần nó cũng đưa sang" đã ít nhiều chuyển dịch ý nghĩa khi con người tỏ ra không còn bằng lòng với giới hạn tù túng của lũy tre làng, mà ngày càng mở rộng phạm vi sinh sống của mình. Tình huống mới về cư trú đã làm cho việc "sớm thăm, tối viếng" dù có muốn cũng trở nên khó khăn, từ đó, cả cha mẹ và con cái đều chấp nhận việc thực hành đạo hiếu qua thư từ, điện thoại, về thăm cha mẹ vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc về phép; và đồng quà tấm bánh hay chiếc áo mới nhiều khi lại được thay thế bằng chiếc "phong bì" để cha mẹ mua sắm tùy ý. Như vậy là, việc thực hành đạo hiếu đã có chuyển dịch để thích ứng với tình huống mới của cuộc sống, và dường như điều này đã được số đông dân chúng chấp nhận.
Trong tư cách là chủ thể của quá trình sản xuất văn hóa, con người luôn luôn có khát vọng phải làm thế nào để sản phẩm do mình làm ra có tính hữu dụng ngày càng cao, ngày càng đẹp, ý nghĩa nhân văn ngày càng phong phú, sâu sắc. Ðó là căn nguyên lý giải vì sao tính thẩm mỹ lại tham gia vào việc làm đẹp ngôi nhà, chiếc xe, thậm chí đến chiếc áo - vật dụng mà chức năng trước hết là để "che nửa trên của cơ thể". Ngay cả khi sản xuất các sản phẩm của nền khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại cũng vậy, từ máy bay, tàu hỏa cao tốc, ô-tô, máy tính... tới điện thoại di động, xe máy,... con người vẫn chú ý đến vai trò của tính thẩm mỹ để sản phẩm vừa hữu dụng vừa phù hợp thị hiếu của người sử dụng.
Với các sản phẩm tinh thần, từ lý tưởng mà xã hội đang hướng tới đến các bài hát, bản nhạc, cuốn truyện, bức tranh, vở kịch, bộ phim... thì yêu cầu về tính nhân văn còn cao hơn rất nhiều. Bởi những tác phẩm này tác động trực tiếp tới sự hoàn thiện thế giới tinh thần bên trong của mỗi người, làm cho thế giới ấy trở nên phong phú hay đơn điệu, nghèo nàn, sinh động hay cằn cỗi, giàu khát vọng sáng tạo hay thụ động, lười nhác... Ðiều đó cho thấy, việc sản xuất sản phẩm văn hóa trước hết phụ thuộc vào quan niệm, mục đích của người sản xuất, vào cách thức họ đưa sản phẩm đến với người sử dụng như thế nào. Và nếu khi trong xã hội xuất hiện các sản phẩm "phản văn hóa" thì người sản xuất phải là người chịu trách nhiệm duy nhất, cuối cùng. Không ai khác, chính họ là chủ nhân của sản phẩm, họ phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Vì lẽ, sự ra đời của sự vật - hiện tượng "phản văn hóa" có thể gây tác hại không lường đối với tiến trình phát triển xã hội, đẩy tới sự tha hóa con người, và việc phê phán các sự vật - hiện tượng "phản văn hóa" trong thời gian gần đây một mặt cho thấy các tiêu chí, chuẩn mực văn hóa lành mạnh vẫn giữ vai trò chủ động trong sinh hoạt xã hội, mặt khác cho thấy dư luận nghiêm túc không bao giờ đồng tình với các sản phẩm "phản văn hóa".
Trên ý nghĩa nhất định và nhìn từ góc độ phát triển các giá trị vật chất và tinh thần, xét đến cùng, lịch sử nhân loại chính là lịch sử phát triển văn hóa. Với những gì nó mang tải, văn hóa trở thành thước đo, trở thành tiêu chí đánh giá phẩm chất và trình độ phát triển của mỗi xã hội, mỗi con người. Nói đến văn hóa là nói đến giá trị người, và quá trình "văn hóa hóa" là quá trình làm cho con người trở thành "con người" với các ý nghĩa cao quý.
Lịch sử của nhân loại, lịch sử mỗi quốc gia, lịch sử của mỗi con người có thể có bước thăng trầm, có thể có thời điểm, thời đoạn mà cái ác, cái xấu hoành hành vừa làm tha hóa vừa cản trở bước đi lên của xã hội, nhưng về xu hướng, tất yếu xã hội - con người chỉ có thể phát triển bằng các giá trị văn hóa, bằng các giá trị nhân văn. Với sự phát triển của con người như ngày nay, không thể coi việc sản xuất ra các sản phẩm "phản văn hóa" là hành vi tự phát mà phải coi đây là hành vi có ý thức, nhưng là ý thức vô trách nhiệm đối với cộng đồng. Tuy nhiên vấn đề không chỉ là sự nhận thức, bởi trừ một số cá nhân (như văn nghệ sĩ trẻ ít nhiều còn nông nổi, chưa đủ chín chắn để phân biệt lợi - hại, hay - dở khi công bố tác phẩm trước công chúng) chắc chắn số người còn lại đều nắm bắt được tác động nguy hại của sản phẩm do họ sản xuất và họ đã cố tình tảng lờ sự nguy hại ấy. Hoàn toàn có thể nói rằng hiện tượng trên đây có nguyên nhân từ sự thiếu hụt trong hiểu biết về tác động ngược chiều của sản phẩm đối với xã hội - con người và mục đích vì lợi nhuận. Một số người, trong khi chạy theo lợi ích kinh tế hẹp hòi của cá nhân, đã buông lơi, hạ thấp ý nghĩa văn hóa của sản phẩm do họ làm ra, các sản phẩm đó đã có tác động xấu tới sự phát triển đời sống tinh thần của xã hội.
Nhìn ra thế giới, hậu quả của mô hình "xã hội tiêu thụ" cùng sự suy giảm một số giá trị văn hóa tinh thần ở một số quốc gia là bài học mà chúng ta phải tham khảo trong khi xây dựng mối quan hệ cân bằng, đồng bộ giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần của xã hội. Mấy năm gần đây, đã xuất hiện một nghịch lý thật rất đáng lo ngại là trong khi mức sống, thu nhập quốc dân tăng lên thì các tệ nạn xã hội nảy sinh, đạo đức xã hội có những mặt xuống cấp, tự nhiên bị khai thác bừa bãi, lối sống thực dụng cực đoan đã chi phối hoạt động của không ít cá nhân... Trong thực tế, đã xuất hiện dấu hiệu đầu tiên của tình trạng mất cân đối giữa văn hóa và phát triển. Nếu nghịch lý này không được giải quyết, sẽ không chỉ gây tác hại đối với xã hội - con người hôm nay, mà còn có tác hại đối với xã hội - con người tương lai. Do đó, vì tương lai của văn hóa dân tộc, vì sự toàn vẹn của một đời sống đạo đức lành mạnh, đã đến lúc yêu cầu tinh thần văn hóa tự giác phải trở thành phẩm chất bên trong của mỗi người, phải được kết hợp các biện pháp chế tài dựa trên cơ sở luật pháp để xử lý sản phẩm "phản văn hóa". Nói cách khác, đối với các cá nhân là chủ thể của quá trình sản xuất - truyền bá sản phẩm "phản văn hóa" thì việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh cũng phải giữ vai trò thượng tôn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét