Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

Ai là cha đẻ của Quants?

Mọi người có thể biết đến Harry Markowitz hay Milton Friedman như những vị anh hùng của ngành tài chính đương đại. Nhưng ít ai biết được rằng, người đàn ông đầu tiên nghiên cứu phương pháp định lượng tính, người đã hướng dẫn luận án tiến sĩ cho Harry Markowitz và truyền cảm hứng cho Milton Friedman lại là người theo chủ nghĩa Marxist - Jacob Marschak.
Phochungkhoan
Jacob Marschak (nguồn: Internet)
Có một sự thật trớ trêu trong quá khứ đó là người đàn ông - người đã đặt nền móng cho tài chính định lượng hiện đại, đã bắt đầu sự nghiệp của ông từ danh phận một nhà hoạt động Cách mạng Mác-Lênin.
Jacob Marschak có lẽ không phải là một cái tên quen thuộc với thế hệ trẻ ngày nay nhưng ông thực sự đã truyền cảm hứng cho những người đang hoạt động trong lĩnh vực tài chính và ngay cả những nhà tư tưởng lớn như Milton Friedman - nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ với giải Nobel kinh tế năm 1976 hay Harry Markowitz, người đặt những viên gạch đầu tiên cho học thuyết về Danh mục đầu tư hiện đại. Sự am hiểu của Marschak hiện nay được coi là xương sống trong các chiến lược kinh doanh và các thuật toán trên máy tính đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Marschak sinh ra trong một gia đình người Do Thái ở Kiev, Ukraine, 1890. Thời niên thiếu, ông tham gia vào  Cách mạng Nga, là nhà hoạt động Menshevik. Từ sự giải phóng của Ukraine khỏi Đế quốc Nga, nhân dân ca tụng Marschak và đưa ông lên vị trí Bộ trưởng lao động của nhà nước độc lập Tereck, nhưng niềm vui đến với ông cũng chẳng lâu.
Trong vòng vài tháng, nhà nước Tereck bị chi phối bởi vùng lãnh thổ khác và sau đó bị gộp lại vào liên bang Soviet. Marschak vỡ mộng chạy trốn sang Đức. Tại đây, Marschak được nhận vào đào tạo theo học thuyết Austrian School về kinh tế thị trường tự do. Trong thời gian sinh sống tại Đức, ông luôn nung nấu hy vọng sẽ dàng quãng đời còn lại sinh sống tại mảnh đất này. Nhưng khi Đức quốc xã lên nắm quyền thì người đàn ông Do Thái - nhà cách mạng Mác - nhà kinh tế Austrian đã sáng suốt rời bỏ Đức, di cư đầu tiên tới Anh và sau đó là Mỹ. Tại Mỹ, ông tiếp tục sự nghiệp học tập ở New School, New York, ngôi trường đại học đề cao tinh thần chống lại Phát xít lưu vong.
Quants
Marschak chỉ là một trong những người tạo lên làn sóng của các nhà kinh tế, nhà tài chính chảy về Mỹ bởi vì Đức quốc xã lên nắm quyền tại Đức. Một số người họ đổ về trường đại học của Chicago, trong đó có cả Marschak, người sau này trở thành giám đốc của viện nghiên cứu Cowles Commission - một công trình hiện đại được sáng lập bởi Alfred Cowles III. Trong thời gian làm việc tại viện, Marschak đã truyền cảm hứng cho một thế hệ các nhà lý luận tài chính, những người được biết đến là "quants".
Trước sự trỗi dậy của phương pháp định lượng, tài chính được xem là một nghệ thuật hơn là một ngành khoa học. Các nhà hoạt động tài chính thường dựa vào bản năng và kinh nghiệm, các nhà lý luận học lại sử dụng các loại công cụ thô sơ dựa trên khấu hao lợi nhuận ròng theo kỳ vọng với giá an toàn. Thế mà người ta lại công nhận rằng những phương pháp tiếp cận này có khả năng không an toàn về giá. Và một khái niệm đáng quan tâm khác đó là không nên bỏ hết trứng vào chung một rổ.
Năm 1935, nhà kinh tế học người Anh John Hicks (đạt giải Nobel sau này) nói rằng một nhà đầu tư khôn ngoan phải đặt một số tài sản vào danh mục kinh doanh mang rủi ro và phần còn lại nằm ở vị trí đầu tư an toàn. Làm như vậy có thể xác định được nếu một danh mục đầu tư phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro của nhà đầu tư hay không.
Dễ thấy quan điểm này mang lại lợi ích nhưng nó thiếu sự dìu dắt của lý thuyết. Trước khi một nhà đầu tư có thể quản lý rủi ro, một phương pháp đo khả năng rủi ro phải được thực hiện trước.
Marschak đề xuất một giải pháp trong bài viết của ông "Money and the Theory of Assets" năm 1938. Ông quan sát được từ các nhà đầu tư, bằng bản năng họ dự đoán hàng hóa và giá trong tương lai. Tuy nhiên trong khi họ cố gắng đánh giá giá trị trung bình kỳ vọng trong tương lai, họ bắt buộc phải đánh giá xác suất một loạt các giá trị có thể xảy ra trong tương lai và chúng liên quan nhau như thế nào.
Marschak đề xuất rằng sự kỳ vọng có thể xác định bởi hai thông số: giá trị trung bình và hệ số biến thiên. Dựa vào đó ông cho rằng hệ số biến thiên là phép toán để đo lường rủi ro mà chúng ta vẫn sử dụng cho đến nay. Trong thế kỷ vừa qua, hàng trăm nhà vật lý học đã áp dụng phương pháp tương tự để miêu tả giá trị trung bình và xác suất. Họ đã phát triển ra một phương pháp để tính giá trị trung bình (hoặc dự kiến) dựa vào xác suất của kết quả khác nhau có thể xảy ra trong tương lai và được được gọi là khởi đầu tính toán. Họ cũng phát triển phương pháp đo độ biến thiên bằng cách tính toán giá trị xác suất của kết quả khác nhau so với giá trị trung bình. Thời điểm thứ hai này là phép tính quen thuộc của phương sai.
Cái nhìn đi trước thời đại
Marschak lý luận rằng kỹ thuật trung bình - phương sai này có thể áp dụng vào giá cả tài sản. Nhưng ông đã đưa kỹ thuật này đi những bước xa hơn nữa. Ông nhận ra rằng có một mối quan hệ thống kê giữa một tài sản thay đổi một tài sản khác. Hiệp phương sai này cuối cùng hoạt động như là cơ sở cho sự am hiểu của một trong những sinh viên nổi tiếng nhất của Marschak, Harry Markowitz.
Phochungkhoan
Harry Markowitz (nguồn: Internet)
Markowitz đã bị hấp dẫn bởi công trình nghiên cứu Thời Đại Đại Suy Thoái của John Burr Williams, người đầu tiên phát triển hệ thống lý luận về chiết khấu dòng tiền. Dưới sự chỉ dẫn của Marschak, Markowitz nhận thức rõ rằng mặc dù giá trị hiện tại trung bình/kỳ vọng của một dòng tiền tương lai là quan trọng, cho nên phương sai của nó cũng quan trọng không kém.
Sự hợp tác giữa người hướng dẫn - người được hướng dẫn này sớm đưa Markowitz đến thành công của công trình khoa học 1952 trang, với luận điểm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ về lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại trên tạp chí tài chính mang tựa đề "Lựa chọn danh mục đầu tư". Từ thời điểm đó, lý thuyết tài chính hiện đại ra đời.
Bài nghiên cứu của Marschak về tiền tệ và lý thuyết tài sản - cùng với những công việc khác của ông trên thị trường được biết đến rộng rãi. Trong khi đó, ông là người truyền cảm hứng cho luận án của chàng trai trẻ Markowitz - tuy có khó đọc đối với các nhà tài chính và chuyên gia ngày nay, tuy nhiên một người đọc có thể dễ dàng nhận ra các phân tích của ông. Hai phương pháp tham số trung bình - phương sai hiện đang "làm cháy" tất cả các máy tính tài chính và trong công thức; từ thị trường - dòng chứng khoán của Markowitz cho đến mô hình giá của vốn - tài sản cho đến công thức lựa chọn - giá Black - Scholes - Merton. Mỗi công thức cơ bản này trong tài chính giả định rằng phần thưởng - rủi ro trong giao dịch có thể được mô tả chỉ bằng hai tham số như là Marschak đề xuất vào năm 1938. Những thế hệ tiếp theo của Marschak sau này được trao giải Nobel cho công trình mà tưởng như là hoang tưởng nếu thiếu ông.
Marshak mới là người thực hiện cuộc cách mạng thực sự - chứ không phải là thứ tồn tại trong tiềm thức của Karl Marx.
Hà Chi
Ph

0 nhận xét:

Đăng nhận xét