Phạm Nguyên Trường dịch
Khi
suy nghĩ về những ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường trong việc giải
quyết vấn đề hợp tác xã hội cần phải làm rõ một số ngộ nhận. Đa số, chứ
không phải là tất cả, những ngộ nhận đó là do những người có thái độ thù
địch với thị trường tuyên truyền. Một số có thể lại được tạo ra bởi
những người có thái độ ủng hộ quá mức đối với thị trường. Mặc dù tất cả
những ngộ nhận đó đều đáng được phân tích một cách kĩ lưỡng, nhưng trên
thực tế chúng ta thường gặp những ngộ nhận loại một, còn ngộ nhận loại
thì hiếm gặp hơn.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét hai mươi ngộ nhận, được chia thành bốn nhóm chính:
- Phê phán từ quan điểm đạo đức;
- Phê phán từ quan điểm kinh tế;
- Phê phán từ quan điểm kết hợp giữa kinh tế và đạo đức;
- Ủng hộ một cách quá nhiệt tình.
Phê phán từ quan điểm đạo đức
- Thị trường là vô luân hoặc không cần quan tâm tới luân thường đạo lí
Thị
trường làm cho người ta chỉ nghĩ đến tính toán lợi ích. Trao đổi trên
thương trường là bất chấp đạo đức, bất chấp những điều cao quí, những
điều làm cho chúng ta trở thành con người: tức là có khả năng suy nghĩ
không chỉ về những thứ có lợi cho mình mà còn biết phân biệt giữa đúng
và sai, giữa luân lí và vô luân nữa.
Thật
khó tưởng tượng được một tuyên bố sai lầm hơn thế. Vì muốn trao đổi thì
các bên phải tôn trọng công lí. Những người trao đổi với nhau khác hẳn
những người chỉ biết cướp đoạt: các bên trao đổi thể hiện sự tôn trọng
đối với quyền lợi hợp pháp của người khác. Người ta tham gia trao đổi
trước hết là vì người ta muốn cái người khác có nhưng đạo đức và pháp
luật không cho phép người ta cướp đoạt. Trao đổi là chuyển đổi phân bố
nguồn lực, nghĩa là mọi trao đổi đều được so sánh với phân bố ban đầu:
nếu không có trao đổi thì các bên vẫn giữ được cái mà mình có. Trao đổi
đòi hỏi nền tảng công lí vững chắc. Không có nền tảng đạo đức và pháp
luật như thế thì không thể có trao đổi.
Nhưng
thị trường không chỉ là tôn trọng công lí. Thị trường còn là khả năng
cân nhắc không chỉ ước muốn của mình mà còn cân nhắc ước muốn của người
khác, đặt mình vào vị trí của người khác nữa. Người chủ nhà hàng mà
không quan tâm tới ước muốn của thực khách thì chẳng mấy chốc sẽ phá
sản. Nếu thực khách bị ngộ độc thức ăn thì họ sẽ không tới nữa. Nếu thức
ăn không hợp khẩu vị thì họ cũng sẽ không tới nữa. Kết quả là chủ nhân
sẽ phá sản. Thị trường khuyến khích những người tham gia đặt mình vào vị
trí của người khác, xem xét nguyện vọng của người khác và cố gắng nhìn
các sự vật và hiện tượng bằng con mắt của người khác.
Thị
trường là lựa chọn thay thế cho bạo lực. Thị trường giúp chúng ta sống
trong xã hội. Thị trường nhắc nhở chúng ta rằng cần phải tính đến quyền
lợi của những người khác.
- Thị trường khuyến khích thói tham lam và tính ích kỉ
Trên
thị trường người ta chỉ tìm cách mua hàng với giá thấp nhất hoặc kiếm
được nhiều lời nhất mà thôi. Động cơ của họ là lòng tham và tính ích kỉ
chứ không phải là quan tâm tới người khác.
Thị
trường không khuyến khích cũng không làm giảm được tính ích kỉ hoặc
lòng tham. Nó tạo điều kiện cho cả những người vị tha nhất cũng như
những người ích kỉ nhất thực hiện mục tiêu của mình bằng biện pháp hòa
bình. Những người dành cả đời mình để giúp đỡ người khác có thể sử dụng
thị trường nhằm thúc đẩy những mục tiêu của mình chẳng khác gì những
người lấy việc tích cóp tài sản làm mục tiêu. Một số người lại tích cóp
tài sản nhằm gia tăng khả năng giúp đỡ người khác nữa. George Soros và
Bill Gates là thí dụ điển hình của loại người như thế; họ đã kiếm được
bộn tiền, một phần là để gia tăng khả năng giúp đỡ người khác thông qua
những khoản tiền rất lớn mà họ hiến tặng cho những hoạt động từ thiện.
Giả
sử có một Mẹ Teresa mới, bà muốn sử dụng số tài sản mà bà có để nuôi
ăn, cung cấp quần áo mặc và chăm sóc cho thật nhiều người. Thị trường sẽ
tạo điều kiện cho bà tìm được những chiếc chăn, thức ăn, thuốc chữa
bệnh với giả rẻ nhất để chăm sóc cho những người cần bà giúp đỡ. Thị
trường giúp làm ra của cải để giúp đỡ những người kém may mắn và tạo
điều kiện cho những người có lòng trắc ẩn gia tăng khả năng giúp đỡ của
họ. Thị trường làm cho những người có lòng trắc ẩn có cái để mà làm việc
thiện.
Chúng
ta thường lầm lẫn khi đánh đồng mục tiêu của người ta với “tính tư
lợi”, rồi lại đánh đồng tính tư lợi với “thói ích kỉ”. Nói cho ngay, mục
đích của những người tham gia trên thương trường là mục đích cá nhân,
nhưng là những người sống có mục đích, chúng ta còn quan tâm tới quyền
lợi và hạnh phúc của những người khác nữa – đấy là những người trong gia
đình ta, bạn bè ta, hàng xóm của ta và thậm chí cả những người hoàn
toàn xa lạ mà chúng ta chẳng bao giờ gặp. Và như đã nói bên trên, thị
trường tạo điều kiện cho người ta cân nhắc nhu cầu của người khác, kể cả
những người hoàn toàn xa lạ nữa.
Như
mọi người đều biết, nền tảng bền vững nhất của xã hội loài người không
phải là tình yêu hay tình bằng hữu. Tình yêu và tình bằng hữu là thành
quả của những lợi ích mà các bên cùng thu được thông qua hợp tác, dù là
nhóm lớn hay nhóm nhỏ thì cũng thế. Không có lợi ích chung như thế thì
xã hội không thể nào tồn tại được. Không có lợi ích chung thì tin tốt
đối với Tom sẽ là tin xấu đối với June và ngược lại, và họ sẽ không thể
nào hợp tác được với nhau, không thể là bạn bè của nhau được. Thị trường
thúc đẩy sự hợp tác giữa người với người, nó còn tạo điều kiện cho
những người không quen biết nhau, những người thuộc các tôn giáo hay
ngôn ngữ khác nhau và những người có thể chẳng bao giờ gặp nhau hợp tác
với nhau. Lợi ích tiềm tàng của thương mại và việc khuyến khích thương
mại bằng quyền sở hữu được xác định một cách rõ ràng và được bảo đảm
bằng pháp luật làm cho ngay cả những người hoàn toàn xa lạ cũng có thể
cùng làm công việc từ thiện, có thể có tình yêu và tình bạn xuyên qua
đường biên giới quốc gia nữa.
Phê phán từ quan điểm kinh tế
- Chỉ dựa vào thị trường thì sẽ dẫn tới độc quyền
Chỉ
dựa vào thị trường tự do mà không có sự can thiệp của nhà nước thì sẽ
dẫn tới sự kiện là một vài công ty lớn bán đủ mọi thứ. Thị trường đương
nhiên là sẽ tạo ra các công ty độc quyền, vì những nhà sản xuất nhỏ sẽ
bị những công ty lớn đẩy ra ngoài, đấy là những công ty chỉ tìm kiếm lợi
nhuận mà thôi. Trong khi đó chính phủ tìm cách bảo vệ quyền lợi xã hội
và sẽ hành động nhằm ngăn chặn độc quyền.
Nhưng
các chính phủ - và họ thường làm như thế - lại dành độc quyền cho những
cá nhân hay những nhóm người mà họ ưu ái, nghĩa là họ cấm những người
khác tham gia vào thị trường và cấm cạnh tranh nhằm lôi kéo người tiêu
dùng. Đấy chính là độc quyền. Độc quyền cũng có thể được giành cho những
cơ quan hay xí nghiệp của chính phủ (thí dụ, chính phủ nhiều nước kiểm
soát hoàn toàn dịch vụ bưu chính) hoặc giành cho những công ty, gia đình
hay cá nhân được chính quyền ưu ái.
Thị
trường tự do có thúc đẩy quá trình độc quyền hóa hay không? Có rất ít
hoặc chẳng có lí do chính đáng nào để nghĩ như thế hết, trong khi đó lại
có nhiều lí do để nghĩ là không. Thị trường tự do là quyền tự do của cá
nhân trong việc tham gia cũng như không tham gia thị trường, tự do mua
hay bán với những người mà họ muốn mua và bán. Nếu một số công ty nào đó
trên thương trường có quyền tự do kiếm được lợi nhuận cao hơn lợi nhuận
trung bình thì họ sẽ lôi kéo đối thủ cạnh tranh tham gia và lợi nhuận
cao sẽ không còn. Một số tác phẩm viết về kinh tế học mô tả những tình
huống giả định, trong đó thị trường có thể tạo ra những “kẽ hở” thường
trực - thu nhập lớn hơn chi phí cơ hội – thu lợi nhuận bằng cách sử dụng
nguồn lực theo cách khác. Nhưng tìm ra những thí dụ cụ thể là khó khăn
thiên nan vạn nan, nếu không kể những trường hợp khi người ta nắm được
những nguồn lực độc đáo (thí dụ như bức tranh của Rembrandt). Trái lại,
lịch sử đầy dãy những thí dụ về việc chính phủ giành đặc quyền đặc lợi
cho những người ủng hộ họ.
Quyền
tự do tham gia thị trường và tự do lựa chọn người bán thúc đẩy quyền
lợi của người tiêu dùng, nó bào mòn “kẽ hở” tạm thời mà những người hay
công ty đầu tiên cung cấp hàng hóa có thể được hưởng. Trái lại, giao cho
chính phủ quyền xác định ai có thể hay không thể cung cấp hàng hóa hay
dịch vụ sẽ tạo ra các công ty độc quyền – độc quyền thật sự chứ không
phải là giả định – làm hại quyền lợi người tiêu dùng và cản trở sự phát
triển của lực lượng sản xuất, mà phát triển sản xuất chính là cơ sở của
việc cải thiện điều kiện sống của con người. Nếu thị trường thường xuyên
tạo ra độc quyền thì chúng ta đã không thấy nhiều người tìm đến chính
phủ để xin được độc quyền, làm thiệt hại người tiêu dùng và những công
ty cạnh tranh yếu thế hơn. Họ đã có thể giành được độc quyền thông qua
cơ chế thị trường rồi.
Không
được quên rằng chính phủ cũng luôn luôn tìm cách độc quyền: một trong
những đặc điểm dễ thấy nhất là độc quyền sử dụng vũ lực tại một vùng
lãnh thổ. Tại sao chúng ta có thể nghĩ rằng sự độc quyền đó lại tạo điều
kiện thuận lợi cho cạnh tranh hơn là cơ chế thị trường, một cơ chế tạo
điều kiện cho mọi người tự do cạnh tranh với nhau?
- Thị trường chỉ hoạt động khi có thông tin hoàn hảo, mà muốn thế thì phải có sự quản lí chính phủ
Muốn
cho thị trường hoạt động hữu hiệu thì tất cả những người tham gia trên
thương trường đều phải có đầy đủ thông tin về giá mà họ phải trả cho mỗi
hành động của mình. Nếu một số người có nhiều thông tin hơn những người
khác thì sự mất đối xứng như thế sẽ dẫn tới kết quả tiêu cực và bất
công. Chính phủ phải can thiệp nhằm cung cấp thông tin và tạo ra những
kết quả tích cực và công bằng.
Thông
tin, cũng như mọi thứ chúng ta cần bao giờ cũng có giá của nó, nghĩa là
muốn có thêm thông tin thì chúng ta phải từ bỏ một cái gì đó. Thông tin
cũng là hàng hóa được trao đổi trên thương trường; thí dụ, chúng ta mua
những cuốn sách có chứa thông tin vì chúng ta cho rằng thông tin chứa
trong những cuốn sách đó có giá trị cao hơn là số tiền chúng ta bỏ ra để
mua chúng. Chẳng khác gì chế độ dân chủ, thị trường hoạt động mà không
cần thông tin hoàn hảo. Cho rằng những người tham gia trên thương trường
phải trả giá cho thông tin nhưng những người tham gia hoạt động chính
trị lại không cần trả giá gì cả là quan niệm không thực tế, cực kì có
hại. Cả các chính khách lẫn cử tri đều không thể có thông tin hoàn hảo.
Đặc biệt là, cả các chính khách lẫn cử tri đều không cố gắng tìm kiếm
cho đủ thông tin cần thiết như là những người tham gia trên thương
trường vẫn làm vì họ có mất tiền của mình đâu. Thí dụ, khi chi tiêu bằng
tiền ngân sách các chính trị gia thường không thận trọng, nghĩa là
không cố gắng tìm kiếm thông tin bằng lúc họ tiêu tiền của chính mình.
Người
ta thường cho rằng nhà nước cần phải can thiệp là do sự mất đối xứng về
thông tin giữa người tiêu dùng và những người cung cấp các dịch vụ
chuyên biệt. Bác sĩ bao giờ cũng có nhiều thông tin về y tế hơn là bệnh
nhân, nói thí dụ thế, và đấy là lí do vì sao chúng ta phải đến bác sĩ
chữa bệnh chứ không tự chữa lấy. Vì lí do đó mà người ta ngờ rằng bệnh
nhân không thể biết ông bác sĩ nào giỏi hơn, hoặc có được chữa đúng hay
không hoặc có phải trả nhiều tiền quá hay không. Giấy phép hành nghề của
nhà nước là đáp án cho những câu hỏi như thế; đôi khi có người nói rằng
với cách cấp giấy phép hành nghề như thế, dân chúng có thể tin rằng bác
sĩ là người có trình độ, có chuyên môn và không bắt họ trả quá nhiều
tiền. Nhưng kết quả của những công trình nghiên cứu về việc phát giấy
phép hành nghề chữa bệnh cũng như những nghề khác lại cho thấy hoàn toàn
ngược lại. Nếu thị trường tạo ra sự phân hóa về trình độ thì chế độ cấp
phép lại chỉ có hai mức, được cấp hoặc là không được cấp. Hơn nữa, giấy
phép hành nghề thường bị thu hồi khi người được cấp phép có “hành vi
không phù hợp với nghề nghiệp”, trong đó có cả quảng cáo! Nhưng quảng
cáo là một trong những phương tiện mà thị trường dùng để cung cấp thông
tin – về sự tồn tại của sản phẩm và dịch vụ, về chất lượng và giá cả. Hệ
thống cấp phép không phải là giải pháp cho vấn đề bất đối xứng thông
tin mà là nguyên nhân của nó.
- Thị trường chỉ hoạt động khi có rất nhiều người với thông tin hoàn hảo cùng trao đổi những món hàng hoàn toàn giống nhau.
Thị
trường hiệu quả - tức là thị trường tạo điều kiện tối đa hóa khối lượng
sản phẩm với lãi suất thấp nhất - đòi hỏi rằng không ai được quyền
quyết định giá cả, nghĩa là việc tham gia cũng như rút lui khỏi thương
trường của bất kì người mua hay người bán nào cũng không ảnh hưởng đến
giá cả. Tất cả các sản phẩm đều giống nhau và thông tin về sản phẩm và
giá cả được cung cấp miễn phí. Nhưng thương trường là cuộc cạnh tranh
không hoàn hảo, đấy là lí do vì sao chính phủ phải tham gia và điều
tiết.
Sử
dụng những mô hình tương tác kinh tế trừu tượng có thể có ích, nhưng
nếu những khái niệm mang tính lí thuyết phải gánh thêm những điều kiện
mang tính quy chuẩn như “hoàn hảo” thì điều đó có thể dẫn tới những hậu
quả cực kì tiêu cực. Nếu một hoàn cảnh cụ thể nào đó của thị trường được
coi là cạnh tranh “hoàn hảo” thì tất cả những hoàn cảnh khác sẽ bị coi
là “không hoàn hảo” và cần phải được cải thiện – có lẽ là bằng một cơ
quan nào đó bên ngoài thị trường. Trên thực tế, cạnh tranh “hoàn hảo”
chỉ là mô hình trí tuệ, từ đó có thể rút ra một số kết luận nhất định,
thí dụ như vai trò của lợi nhuận trong việc phân bố nguồn lực (khi lợi
nhuận của lĩnh vực nào đó cao hơn lợi nhuận trung bình thì những công ty
cạnh tranh sẽ hướng nguồn lực của họ vào lĩnh vực đó, giá sẽ giảm và
lợi nhuận cũng giảm theo) và vai trò của tính bất định trong việc quyết
định nhu cầu giữ tiền mặt (vì nếu thông tin được phát miễn phí thì mọi
người sẽ mang đầu tư tất cả số tiền họ có và sẽ thu xếp vốn liếng như
thế nào đó để họ có thể nhận
được tiền mặt đúng vào lúc họ cần đầu tư, từ đó có thể rút ra kết luận
rằng người ta giữ tiền mặt là do thiếu thông tin). Cạnh tranh “hoàn hảo”
không phải là kim chỉ nam cho việc cải tiến thị trường, đấy chỉ là một
thuật ngữ chưa chuẩn trong mô hình mang tính lí thuyết về những quá
trình diễn ra trên thương trường mà thôi.
Nhà
nước muốn trở thành tác nhân có thể đưa thị trường đến sự “hoàn hảo”
như thế thì chính nó cũng phải là sản phẩm của chế độ dân chủ “hoàn
hảo”, trong đó tất cả cử tri và ứng cử viên đều không thể có ảnh hưởng
cá nhân đối với chính sách, tất cả các chính sách đều đồng nhất và thông
tin về ưu, khuyết điểm của các chính sách đều được phát miễn phí. Rõ
ràng là chuyện này không bao giờ xảy ra được.
Phương
pháp khoa học áp dụng trong việc lựa chọn chính sách đòi hỏi rằng lựa
chọn phải được thực hiện trong số những phương án tồn tại trên thực tế.
Theo những phương pháp được nói tới bên trên thì cả lựa chọn trong lĩnh
vực chính trị lẫn lựa chọn trên thương trường đều là những lựa chọn
không hoàn hảo, vì vậy mà người ta phải lựa chọn trên cơ sở so sánh
những quá trình diễn ra trên thực tế chứ không phải là những quá trình
“hoàn hảo” – thương trường hay chính trường thì cũng thế.
Thị
trường tạo ra vô vàn biện pháp cung cấp thông tin và thực hiện sự hợp
tác đôi bên cùng có lợi giữa những người tham gia trên thương trường.
Thị trường cung cấp cho người dân khuôn khổ tìm kiếm thông tin, trong đó
có những hình thức hợp tác. Quảng cáo, tín dụng, uy tín, thị trường
hàng hóa, thị trường chứng khoán, tổ chức giám định và rất nhiều định
chế xuất hiện trên thương trường nhằm phục vụ cho mục tiêu đơn giản hóa
quá trình hợp tác đôi bên cùng có lợi. Chúng ta cần phải tìm những biện
pháp mới trong việc sử dụng thị trường nhằm cải thiện phúc lợi của con
người chứ không phải là bác bỏ thị trường vì nó chưa hoàn hảo.
- Thị trường không có khả năng sản xuất được hàng hóa công cộng (tập thể)
Nếu
tôi ăn quả táo thì anh không thể ăn chính quả táo đó, như vậy có nghĩa
là “tiêu thụ” quả táo là quá trình mang tính cạnh tranh. Nếu tôi chiếu
một bộ phim và không muốn người khác xem thì tôi phải bỏ tiền xây tường
để ngăn không cho những người không trả tiền xem. Trong nền kinh tế thị
trường, một số hàng hóa mà công năng không mang tính cạnh tranh, còn
không cho người khác cùng sử dụng là việc làm rất tốn kém, sẽ không được
người ta sản xuất vì ai cũng chờ người khác làm thay cho mình. Chỉ có
nhà nước mới có khả năng cung cấp những món hàng hóa mang tính xã hội
như thế. Đấy không chỉ là quốc phòng hay hệ thống pháp lí, mà còn bao
gồm giáo dục, giao thông, chăm sóc y tế và nhiều loại dịch vụ khác.
Không thể giao cho thị trường những lĩnh vực như thế vì những người
không trả tiền sẽ sử dụng chúng trên cơ sở chi phí của người khác, và vì
ai cũng muốn sử dụng miễn phí nên chẳng ai chịu chi tiền hết. Như vậy
nghĩa là chỉ có chính phủ mới có thể làm được những chuyện đó.
Biện
hộ cho vai trò nước trong việc sản xuất những loại hàng hóa công cộng
là một trong những trường hợp áp dụng sai luận cứ kinh tế thường gặp
nhất. Hàng hóa được sử dụng theo lối cạnh tranh hay phi cạnh tranh
thường không phải là do bản chất cố hữu của nó mà do số người sử
dụng: bể bơi có thể không phải là hàng hóa có tính cạnh tranh nếu chỉ
có hai người sử dụng, nhưng sẽ thành cạnh tranh nếu có hai trăm người
muốn bơi. Ngoài ra, muốn bảo đảm rằng chỉ một mình mình được sử dụng thì
phải chi tiền, dù đấy là hàng hóa công hay tư thì cũng thế: nếu tôi
không muốn bạn ăn táo của tôi thì có thể tôi sẽ phải có hành động nhằm
bảo vệ chúng, thí dụ như xây hàng rào. Nhiều loại hàng hóa phi cạnh
tranh, thí dụ như trận đấu bóng đá chuyên nghiệp (nếu bạn xem thì không
có nghĩa là tôi không thể xem), có thể được sản xuất/tổ chức vì có những
doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư nhằm “chặn đứng” những người không trả
tiền từ trước rồi.
Ngoài
ra, về bản chất, hàng hóa không mang tính xã hội, nhiều hàng hóa có
tính chất như thế là do quyết định của giới lãnh đạo chính trị nhằm cung
cấp cho dân chúng những hàng hóa đó, thậm chí hoàn toàn miễn phí nữa.
Nếu nhà nước làm những con đường “miễn phí” thì thật khó tưởng tượng làm
sao doanh nghiệp có thể làm ra những con đường “miễn phí”, nghĩa là với
giá vận chuyển bằng không mà lại cạnh tranh được? Nhưng xin nhớ rằng
đường “miễn phí” trên thực thế không phải là miễn phí vì nó được tài trợ
từ tiền thuế (mà những người không đóng thuế có thể bị trừng phạt nặng,
thậm chí bị bỏ tù nữa). Ngoài ra, không phải trả tiền còn là lí do đầu
tiên của việc sử dụng thiếu hiệu quả, thí dụ như nạn kẹt xe, đấy là biểu
hiện của việc không có cơ chế phân bố nguồn lực hạn chế (không gian di
chuyển) nhằm sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất. Thực vậy, xu
hướng chung trên thế giới là sử dụng đường thì phải trả tiền, đấy sẽ là
một đòn nặng đánh vào lí lẽ cho rằng nhà nước phải cung cấp loại “hàng
hóa” này.
Nhiều
loại hàng hóa – từ hải đăng cho đến giáo dục, cảnh sát và giao thông –
tưởng như thị trường không thể nào cung cấp được thì trên thực tế đã
từng được hay đang được cung cấp thông qua cơ chế thị trường. Điều đó
cho phép giả định rằng việc coi đấy là những loại hàng hóa xã hội là phi
lí, hay ít nhất cũng đã bị cường điệu một cách quá đáng.
Người
ta thường cho rằng một số hàng hóa chỉ có thể do nhà nước sản xuất vì
cơ chế giá cả không thể tính toán được kết quả “bên ngoài” của chúng.
Thí dụ, hệ thống giáo dục phổ cập mang lại lợi ích không chỉ cho người
học mà còn cho toàn xã hội nữa, và đấy dường như là lời biện hộ cho hệ
thống giáo dục công, được nhà nước tài trợ thông qua thuế thu nhập.
Nhưng, mặc dù những người khác cũng được lợi – ít nhiều chưa biết – lợi
ích mà người học là cực kì to lớn cho nên họ sẵn sàng đầu tư cho việc
học tập. Lợi ích mà xã hội có thể được hưởng không phải lúc nào cũng làm
cho người ta nao núng. Trên thực tế, nhiều công trình nghiên cứu chứng
tỏ rằng hiện nay sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực giáo dục không
tạo điều kiện cho những người nghèo nhất được đi học, mặc dù họ biết rõ
lợi ích của việc học tập và phải bỏ ra phần không nhỏ trong khoản thu
nhập ít ỏi của họ để cho con em đi học. Dù kết quả “bên ngoài” như thế
nào đi nữa thì họ cũng vẫn dùng tiền túi để đầu tư cho việc học hành của
con em mình.
Cuối
cùng, cần phải nhớ rằng tất cả các luận cứ nói rằng thị trường không
thể cung cấp một cách hiệu quả hàng hóa công cộng cũng có thể được áp
dụng – trong nhiều trường hợp còn thuyết phục hơn – cho việc cung cấp
những loại hàng hóa đó từ phía nhà nước. Sự tồn tại và hoạt động của nhà
nước pháp quyền công chính tự bản thân nó đã là một loại hàng hóa công
cộng rồi, vì lợi ích của nó là phi cạnh tranh (ít nhất là đối với các
công dân của nó) và nếu không cho những người không có đóng góp vào việc
duy trì chế độ (thí dụ như những cử tri có hiểu biết) sử dụng những lợi
của nó thì xã hội sẽ phải trả giá cực kì đắt. Các chính khách cũng như
cử tri chẳng có mấy nhiệt tình trong việc tạo dựng chính phủ hiệu quả và
công chính, nhất là khi so sánh họ với các doanh nhân và người tiêu
dùng trong việc sản xuất hàng hóa công cộng thông qua việc hợp tác trên
thương trường. Điều đó không có nghĩa là chính phủ không được có vai trò
gì trong việc sản xuất hàng hóa công cộng, nhưng người dân không được ỷ
lại vào chính phủ trong việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ công cộng.
Trên thực tế, chính phủ càng nhận nhiều trách nhiệm thì càng có nhiều
khả năng là nó sẽ không tạo được những loại hàng hóa mà nó thực sự có
lợi thế, thí dụ như bảo vệ công dân khỏi những hành động bạo ngược.
- Thị trường không hoạt động (hay kém hiệu quả) khi ảnh hưởng bên ngoài là tiêu cực hay tích cực
Thị
trường chỉ hoạt động khi người hành động nhận được toàn bộ kết quả của
những hành động của mình. Nếu có người nhận được lợi ích mà không cần
đóng góp vào việc sản xuất tiện ích thì thị trường sẽ không thể cung cấp
đủ những tiện ích đó. Tương tự như thế, nếu một số phải gánh chịu hậu
quả “tiêu cực” trong việc sản xuất một loại hàng hóa nào đó, nghĩa là
nếu người ta đã không tính tới giá phải trả cho những hậu quả đó trong
quá trình sản xuất thì thị trường sẽ làm lợi cho một số người và làm
thiệt hại cho một số người khác, vì lợi thì một nhóm người được hưởng,
còn thiệt hại thì những người khác phải chịu.
Ảnh
hưởng bên ngoài không phải là lí do buộc nhà nước làm một số việc hoặc
nhà nước có quyền không cho người dân lựa chọn. Bộ quần áo hợp thời
trang và ăn mặc bảnh bao có thể tạo ra nhiều hậu quả tích cực, vì mọi
người đều vui thích khi thấy những người mặc đẹp và bảnh bao, nhưng đấy
không phải là lí do để cho nhà nước nhận lãnh trách nhiệm trong việc
cung cấp quần áo hay đồ trang sức. Làm vườn, kiến trúc, và rất nhiều
loại hoạt động khác cũng tạo ra những kết quả tích cực đối với người
khác, nhưng người dân vẫn tự mình chăm sóc mảnh vườn hay nhà của họ mà
không cần sự trợ giúp của nhà nước. Trong tất cả các trường hợp vừa nói,
lợi ích của người hành động – kể cả sự tán thành của những người nhận
được tác động tích cực từ hành động đó – đủ lớn để họ tự làm những việc
như thế. Trong những trường hợp khác, thí dụ như chương trình phát thanh
hay truyền hình, hàng hóa công cộng được “gắn” với những hàng hóa khác,
thí dụ như quảng cáo cho các công ty. Cơ chế tạo ra hàng hóa công cộng
cũng nhiều như sức sáng tạo của các doanh nhân sản xuất hàng hóa vậy.
Nhưng thường thì người ta phản đối cơ chế thị trường là do những hậu quả tiêu cực
của nó. Ô nhiễm là thí dụ thường được nói tới nhiều nhất. Nếu nhà sản
xuất có thể làm ra sản phẩm có lời vì ông ta buộc những người khác phải
chịu một phần giá thành sản phẩm, mặc dù họ không đồng ý, bằng cách thải
một khối lượng lớn khói bụi vào không khí hay hóa chất vào sông nước
thì có nhiều khả năng là ông ta sẽ làm như thế. Những người hít thở
không khí ô nhiễm hay uống nước có hóa chất độc hại sẽ phải gánh một
phần giá thành sản phẩm, trong khi các nhà sản xuất lại nhận được khoản
lời từ việc bán sản phẩm của họ. Vấn đề ở đây không phải là cơ chế thị
trường đã thất bại mà là không có cơ chế thị trường. Thị trường dựa vào
quyền sở hữu tư nhân, nó không thể hoạt động được khi quyền tư hữu không
được xác định một cách chính xác hoặc không được bảo vệ. Ô nhiễm chính
là những trường hợp như thế, đấy không phải là sự thất bại của cơ chế
thị trường mà là chính phủ đã không xác định và không bảo vệ được quyền
sở hữu của những người khác, thí dụ như những người hít thở không khí
hay uống phải nước ô nhiễm. Khi những người sống dưới chiều gió hay dưới
nguồn nước có quyền bảo vệ quyền của họ thì họ có thể khẳng định quyền
của mình và chặn đứng được những kẻ gây ra nạn ô nhiểm. Các nhà sản xuất
có thể phải bỏ tiền ra để lắp đặt thiết bị hay công nghệ nhằm loại trừ ô
nhiễm (hoặc giảm đến mức chấp nhận được và vô hại đối với con người),
hoặc đề nghị đền bù cho những người sống dưới chiều gió hay cuối nguồn
nước (cũng có thể cung cấp cho họ chỗ ở mới), hoặc họ sẽ phải ngừng sản
xuất vì giá thành cao hơn lợi nhuận. Chính quyền sở hữu đã làm cho những
tính toán như thế trở thành khả thi, quyền sở hữu khuyến khích người ta
xem xét hậu quả hành động của họ đối với người khác. Và thị trường,
nghĩa là cơ hội tham gia trao đổi một cách tự nguyện quyền sở hữu, tạo
điều kiện cho tất cả các bên tính toán giá cả của những hành động của
mình.
Hậu
quả tiêu cực, thí dụ như ô nhiễm không khí hay nguồn nước, không phải
là thất bại của cơ chế thị trường mà là chính phủ không xác định và
không bảo vệ được quyền sở hữu, vốn là cơ sở của thị trường.
- Xã hội càng phức tạp, càng không thể dựa vào thị trường, càng cần sự quản lí của nhà nước.
Khi
xã hội còn tương đối đơn giản thì thị trường hoạt động hữu hiệu, nhưng
cùng với sự phát triển như vũ bão của những mối quan hệ của rất nhiều
người trong lĩnh vực kinh tế và xã hội như hiện nay thì chính phủ cần
phải hướng dẫn và phối hợp hành động.
Trên
thực tế, hoàn toàn ngược lại. Một người lãnh đạo có khả năng buộc người
ta tuân thủ có thể điều phối một cách hữu hiệu hoạt động của xã hội đơn
giản, thí dụ như một nhóm thợ săn hay những người hái lượm. Nhưng khi
quan hệ xã hội trở thành phức tạp hơn thì trao đổi tự nguyện trên thương
trường trở thành quan trọng hơn, chứ không phải là ngược lại. Trật tự
xã hội phức tạp đòi hỏi sự phối hợp một khối lượng thông tin mà trí tuệ
của một người hay nhóm người nào đó không thể nào nắm bắt được. Thị
trường đã tạo ra những cơ chế chuyển tải thông tin với giá thành tương
đối thấp, giá cả chứa đựng thông tin về cung và cầu dưới dạng những đơn
vị cho phép so sánh giá cả giữa các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau
mà những báo cáo dày cộp của các cơ quan của chính phủ không thể làm
được. Hơn nữa, giá cả vượt qua được rào cản ngôn ngữ, vượt qua được
những khác biệt về tập tục, về sắc tộc và tôn giáo; nó tạo điều kiện cho
chúng ta sử dụng kiến thức của những người xa lạ, những người sống cách
xa ta cả ngàn dặm, ta chẳng bao giờ có thể có bất kì quan hệ nào với
họ. Nền kinh tế và xã hội càng phức tạp thì vai trò của thị trường càng
trở nên quan trọng.
- Cơ chế thị trường không phù hợp với các nước đang phát triển
Thị
trường phù hợp với những nước có cơ sở hạ tầng và hệ thống pháp luật đã
phát triển, nhưng các nước đang phát triển không có những hệ thống như
thế, họ không thể dựa vào thị trường được. Trong những nước đó, nhà nước
cần phải quản lí, ít nhất là cho đến khi cơ sở hạ tầng và hệ thống pháp
luật đã phát triển đến mức có thể tạo ra không gian cho thị trường hoạt
động.
Nói
chung, sự phát triển của cơ sở hạ tầng là đặc trưng của tài sản được
tích lũy thông qua cơ chế thị trường, chứ không phải là điều kiện tồn
tại của thị trường; sự kém cỏi của hệ thống pháp luật là nguyên nhân làm
cho thị trường không phát triển được, chứ không phải là lí do để không
tiến hành cải cách hệ thống pháp luật để nó có thể cung cấp cơ sở cho sự
phát triển của thị trường. Muốn giàu có như các nước đã phát triển thì
chỉ có mỗi một cách là tạo ra nền tảng pháp lí và định chế, sao cho các
doanh nhân, người tiêu dùng, nhà đầu tư và người lao động có thể hợp tác
một cách tự do nhằm sản xuất ra thật nhiều của cải.
Tất
cả những nước giàu có hiện nay đã có thời – thậm chí trong thời gian
gần đây - là những nước rất nghèo. Điều cần thiết không phải là giải
thích sự nghèo đói – đấy là trạng thái tự nhiên của nhân loại – mà là
tìm hiểu cách làm giàu. Của cải là do con người làm ra và cách tốt nhất
để đảm bảo rằng của cải đang được tạo ra là khuyến khích người ta làm
như thế. Không có hệ thống nào tốt hơn là thị trường tự do, với quyền sở
hữu được xác định một cách rõ ràng và được pháp luật bảo vệ để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc trao đổi. Chỉ có một con đường thoát nghèo, đấy
là con đường tạo ra của cải thông qua thị trường tự do.
Thuật
ngữ “nước đang phát triển” thường bị sử dụng sai, đấy là khi người ta
dùng thuật ngữ này để nói về những nước mà chính phủ bác bỏ thị trường,
ủng hộ kế hoạch hóa tập trung, ủng hộ sở hữu nhà nước, thi hành chính
sách trọng tiền[i],
chính sách bảo hộ và những đặc quyền đặc lợi khác. Trên thực tế, đấy
hoàn toàn không phải là những nước đang phát triển. Những nước đang phát
triển – dù giàu hay nghèo – là những nước đã và đang tạo ra những định
chế pháp lí cho quyền sở hữu và hợp đồng, là những nước tiến hành tự do
hóa thị trường, hạn chế quyền lực, hạn chế ngân sách và giới hạn quyền
lực của chính phủ.
Đây
là bài phát biểu của giáo sư Tom G. Palmer tại hội thảo khu vực mang
tên Khuôn khổ định chế cho tự do của châu Phi do Hội Mont Pelerin tổ
chức ở Nairobi, Kenya vào ngày 26 tháng 2 năm 2007.
Giáo sư Tom Gordon Palmer
(sinh năm 1956 ở Bitburg-Mötsch, Đức) là cộng tác viên cao cấp của Viện
Cato (Cato Institute), phụ trách lĩnh vực đào tạo của Viện (Cato
University), phó chủ tịch chương trình quốc tế của quĩ nghiên cứu kinh
tế Atlas (Atlas Economic Research Foundation), và là tổng giám đốc Sáng
kiến toàn cầu vì tự do thương mại, hòa bình và thịnh vượng của quĩ Atlas
(Atlas Global Initiative for Free Trade, Peace, and Prosperity).
Còn 1 kì nữa
[i]
Dịch từ mercantilism – chính sách coi tài sản quốc gia là những thỏi
vàng bạc chứa trong kho, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu
(trước đây thường dịch là trọng thương).
Posted in: Phạm Nguyên Trường
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét