Thứ Năm, 2 tháng 10, 2014
[Fundamental Analysis] Phân tích cơ bản là gì ?
20:56
Hoàng Phong Nhã
No comments
Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn tổng quan về Phân tích cơ bản , 1 trường phái phân tích chủ đạo trong đầu tư tài chính
I. Phân tích cơ bản là gì?
Phân tích cơ bản là việc kiểm tra nguồn lực cơ bản ảnh hưởng đến sức
khỏe của nền kinh tế, nhóm ngành công nghiệp và các công ty. Giống với
hầu hết các dạng phân tích khác đều có mục tiêu là thực hiện dự báo và
hưởng lợi từ biến động giá trong tương lai. Ở cấp độ công ty, phân tích
cơ bản có thể liên quan đến việc kiểm tra dữ liệu tài chính, việc quản
lý, khái niệm kinh doanh và cạnh tranh. Ở cấp độ ngành công nghiệp, có
thể là một sự kiểm tra về nguồn cung cầu đối với các sản phẩm được cung
cấp.
Đối với nền kinh tế quốc dân, phân tích cơ bản có thể tập trung vào các
dữ liệu kinh tế để đánh giá sự tăng trưởng hiện tại và tương lai của
nền kinh tế. Để dự báo giá cổ phiếu trong tương lai, phân tích cơ bản
kết hợp phân tích kinh tế, ngành công nghiệp và công ty để đưa ra được
giá trị hợp lý của một cổ phiếu hiện tại và dự báo giá trị tương lai.
Nếu giá trị hợp lý không bằng giá cổ phiếu hiện tại, phân tích cơ bản
tin cổ phiếu đó được định giá cao hay thấp hơn giá trị và giá thị trường
cuối cùng sẽ điều chỉnh theo hướng quay về giá trị hợp lý. Phân tích cơ
bạn không chú ý đến lời khuyên của bước đi ngẫu nhiên và cho rằng thị
trường hiệu quả dạng yếu. Bằng việc tin rằng giá cả không phản ánh chính
xác tất cả các thông tin có sẵn, các nhà phân tích cơ bản xem xét để
tận dụng dựa trên sự khác biệt của giá.
II. Các bước chung của phương pháp định giá
Mặc dù không có một phương pháp rõ ràng nhưng đinh giá được trình bày
dưới đây theo thứ tự một nhà đầu tư có thể tiến hành. Phương pháp này sử
dụng một phương pháp tiếp cận từ trên xuống, bắt đầu với tổng thể nền
kinh tế và sau đó hoạt động từ nhóm ngành công nghiệp cho đến các công
ty cụ thể. Như là một phần của quá trình phân tích, điều quan trọng là
hãy nhớ rằng mọi thông tin này đều liên quan với nhau.
Nhóm ngành công nghiệp được so sánh với các nhóm ngành công nghiệp khác
và các công ty đối với các công ty khác. Thông thường, các công ty được
so sánh với những công ty khác trong cùng một nhóm. Ví dụ, một công ty
về sản phẩm điện thoại (Apple) sẽ được so sánh với một công ty về sản
phẩm công nghệ khác (Nokia , Samsung ), chứ không phải một công ty dầu
(Chevron).
III. Dự báo nền kinh tế
Đầu tiên và quan trọng nhất trong phương pháp tiếp cận từ trên xuống sẽ
là đánh giá tổng thể nền kinh tế chung. Nền kinh tế cũng giống như thủy
triều và các nhóm ngành công nghiệp khác nhau và các công ty cá nhân
như những con thuyền. Khi nền kinh tế mở rộng, hầu hết các nhóm ngành
công nghiệp và các công ty được hưởng lợi và phát triển. Khi nền kinh tế
suy giảm, hầu hết các ngành và các công ty thường chịu thiệt hại. Nhiều
nhà kinh tế liên kết sự phát triển kinh tế và thu hẹp các mức lãi suất.
Lãi suất sẽ được xem như là một chỉ số hàng đầu cho thị trường chứng
khoán.
Dưới đây là một biểu đồ của S & P 500 và lãi suất của kỳ phiếu
10-năm trong vòng 30 năm qua. Mặc dù không chính xác, mối tương quan
giữa giá cổ phiếu và lãi suất có thể được xem xét. Một kịch bản cho nền
kinh tế tổng thể đã được phát triển, một nhà đầu tư có thể phân chia nền
kinh tế hình thành các nhóm ngành công nghiệp khác nhau.
IV. Lựa chọn nhóm
Nếu dự báo cho một nền kinh tế mở rộng, các nhóm nhất định có khả năng
đem lại lợi ích nhiều hơn những nhóm khác. Một nhà đầu tư có thể thu hẹp
lĩnh vực đến nhóm phù hợp nhất được hưởng lợi từ môi trường kinh tế
hiện tại hoặc tương lai. Nếu hầu hết các công ty sẽ được hưởng lợi từ
việc mở rộng, sau đó rủi ro trong vốn cổ phần sẽ tương đối thấp và một
chiến lược định hướng tăng trưởng tích cực có thể được khuyến khích.
Một chiến lược tăng trưởng có thể liên quan đến việc mua công nghệ kỹ
thuật, công nghệ sinh học, chất bán dẫn và các cổ phiếu mang tính chu
kỳ. Nếu nền kinh tế được dự báo thu hẹp, một nhà đầu tư có thể lựa chọn
cho một chiến lược thận trọng hơn và tìm kiếm các công ty có định hướng
thu nhập ổn định. Một chiến lược phòng thủ có thể liên quan đến việc mua
các mặt hàng chủ lực, dịch vụ và các cổ phiếu về ngành công nghiệp năng
lượng.
Để đánh giá tiềm năng của một nhóm ngành công nghiệp, nhà đầu tư sẽ
muốn xem xét tốc độ tăng trưởng tổng thể, quy mô thị trường, và tầm quan
trọng đối với nền kinh tế. Tất nhiên công ty vẫn quan trọng nhưng nhóm
ngành công nghiệp của những công ty có khả năng gây ảnh hưởng nhiều hơn,
ảnh hưởng lên giá cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu thay đổi, chúng thường di
chuyển theo nhóm, có rất ít trường hợp khác xảy ra. Việc chọn ngành công
nghiệp đúng quan trọng hơn là chọn lựa cổ phiếu đúng. Biểu đồ dưới đây
cho thấy rằng hiệu suất tương đối của 5 lĩnh vực trên một khung thời
gian 7 tháng. Như biểu đồ minh họa, trong lĩnh vực bên phải có thể tạo
nên sự khác biệt.
V. Đơn giản các công ty trong nhóm
Một khi các nhóm ngành công nghiệp được chọn, một nhà đầu tư sẽ cần
phải thu hẹp danh mục các công ty trước khi tiến hành một phân tích chi
tiết hơn. Các nhà đầu tư thường quan tâm đến việc tìm kiếm các nhà lãnh
đạo và người cải cách trong một nhóm.
Nhiệm vụ đầu tiên là xác định môi trường kinh doanh và môi trường cạnh
tranh hiện tại trong một nhóm cũng như các xu hướng trong tương lai. Các
công ty xếp hạng như thế nào theo thị phần, vị trí sản phẩm và lợi thế
cạnh tranh? Các nhà lãnh đạo hiện nay là ai và những thay đổi trong lĩnh
vực này sẽ ảnh hưởng đến bảng cân đối hiện tại như thế nào? Các rào cản
gia nhập là gì? Thành công phụ thuộc vào khía cạnh tiếp thị, công nghệ,
thị phần hoặc đổi mới. Một phân tích so sánh của sự cạnh tranh trong
ngành sẽ giúp xác định những công ty khó khăn và những công ty có nhiều
khả năng.
VI. Phân tích công ty
Với một danh sách ngắn của các công ty, một nhà đầu tư có thể phân tích
các nguồn lực và khả năng trong mỗi công ty để xác định những công ty
có khả năng tạo ra và duy trì một lợi thế cạnh tranh. Các phân tích có
thể tập trung vào việc lựa chọn công ty có kế hoạch kinh doanh hợp lý,
quản lý vững chắc và tình hình tài chính vững mạnh.
VII. Kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch kinh doanh, mô hình hay ý tưởng hình thành nền tảng mà tất cả
thứ khác được xây dựng nên. Nếu kế hoạch, mô hình hoặc các ý tưởng không
tốt thì sẽ có rất ít hy vọng cho doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp
mới, các câu hỏi có thể là: kinh doanh của mình có ý nghĩa gì? Có khả
thi không? Có một thị trường không? Lợi nhuận có thể được thực hiện
không? Đối với một doanh nghiệp thành lập, các câu hỏi có thể là: Công
ty có định hướng rõ rang chưa? Công ty có phải đang dẫn đầu thị trường
không? Công ty có thể duy trì sự dẫn đầu không?
VIII.Quản lý
Để thực hiện kế hoạch kinh doanh, một công ty yêu cầu chất lượng quản
lý hàng đầu. Các nhà đầu tư có thể nhìn vào quản lý để đánh giá khả
năng, điểm mạnh và điểm yếu của công ty. Ngay cả kế hoạch tốt nhất đặt
trong các ngành công nghiệp năng động nhất có thể đi đến sự lãng phí nếu
quản lý kém. Ngoài ra, thậm chí việc quản lý mạnh mẽ có thể tạo nên sự
thành công phi thường trong một ngành công nghiệp trưởng thành. Một số
câu hỏi để hỏi được đặt ra: đội ngũ quản lý tài năng như thế nào? Họ có
đạt được thành tích hay không? Họ làm việc với nhau bao lâu? Quản lý có
thể giữ lời hứa không? Nếu quản lý là một vấn đề, thì đôi cách tốt nhất
là hãy loci bỏ công ty này.
IX. Phân tích tài chính
Bước cuối cùng để quá trình phân tích này sẽ là một phần của báo cáo
tài chính và đưa ra ý nghĩa của việc định giá. Dưới đây là danh sách các
yếu tố đầu vào tiềm năng để phân tích tài chính.
Danh sách có vẻ khá dài và đáng sợ. Tuy nhiên, sau một thời gian, một
nhà đầu tư sẽ được học những gì tốt nhất và phát triển kỹ thuật phân
tích. Có rất nhiều số liệu định giá khác nhau và phụ thuộc nhiều vào
ngành công nghiệp và giai đoạn của chu kỳ kinh tế. Một mô hình tài chính
hoàn chỉnh có thể được xây dựng để dự báo doanh thu, chi phí và lợi
nhuận trong tương lai hoặc một nhà đầu tư có thể dựa vào dự báo của các
nhà phân tích khác và áp dụng các bội khác nhau để đi đến định giá. Một
số các tỷ lệ phổ biến hơn được tính bằng cách lấy giá cổ phiếu chia cho
các giá trị quan trọng.
Phương pháp này giả định rằng một công ty sẽ sell at a Specific
multiple các khoản thu nhập, doanh thu hoặc tăng trưởng. Một nhà đầu tư
có thể xếp hạng các công ty dựa trên các tỷ số định giá. Những tỷ số này
cao có thể được xem xét định giá quá cao, trong khi những tỷ số thấp có
thể tạo thành giá trị tương đối tốt.
X. Kết hợp tất cả lại với nhau
Sau khi tất cả được nói và làm, nhà đầu tư sẽ loại được một số ít các
công ty ra khỏi nhóm. Trong quá trình phân tích, một sự hiểu biết sẽ
phát triển công ty nào nổi bật như các nhà lãnh đạo tiềm năng và sáng
tạo. Ngoài ra, các công ty khác sẽ được coi là lạc hậu và không thể đoán
trước. Bước cuối cùng của quá trình phân tích cơ bản là tổng hợp tất cả
các dữ liệu, phân tích và hiểu biết vào chọn thực tế.
XI. Ưu điểm của phân tích cơ bản
a. Xu hướng dài hạn
Phân tích cơ bản tốt cho đầu tư dài hạn dựa trên xu hướng dài hạn. Khả
năng để xác định và dự đoán kinh tế lâu dài, nhân khẩu học, xu hướng
công nghệ hoặc người tiêu dùng có thể mang lại lợi ích cho nhà đầu tư
kiên nhẫn, những người chọn đúng nhóm ngành công nghiệp, công ty.
b. Giá trị đảo chiều
Phân tích cơ bản sẽ giúp xác định các công ty thể hiện giá trị tốt. Một
số nhà đầu tư suy nghĩ về dài hạn và giá trị. Graham và Dodd, Warren
Buffett và John Neff được xem là nhà vô địch của đầu tư giá trị. Phân
tích cơ bản có thể giúp phát hiện ra các công ty với tài sản có giá trị,
bẳng cân đối kế toán tốt, thu nhập ổn định, và có sức cố thủ.
c. Sự nhạy bén của kinh doanh
Một trong những phần thưởng rõ ràng nhất, nhưng ít hữu hình, phân tích
cơ bản là sự phát triển của một sự hiểu biết thấu đáo của doanh nghiệp.
Sau khi nghiên cứu tỉ mỉ và phân tích như vậy, nhà đầu tư sẽ được quen
thuộc với tỷ số chủ yếu về doanh thu và lợi nhuận sau một công ty. Thu
nhập và lợi nhuận kỳ vọng có thể là những tỷ số chủ chốt của giá cổ
phiếu. Ngay cả một số nhà phân tích kỹ thuật cũng sẽ đồng ý với điều
này. Một sự hiểu biết tốt có thể giúp nhà đầu tư tránh các công ty bị
thiếu hụt và xác định những công ty tiếp tục.
Ngoài sự hiểu biết kinh doanh, phân tích cơ bản cho phép các nhà đầu tư
để phát triển một sự hiểu biết về các giá trị quan trọng và các công ty
trong một ngành công nghiệp. Giá của một cổ phiếu bị ảnh hưởng nhiều
bởi nhóm ngành công nghiệp của nó.Bằng cách nghiên cứu các nhóm này, các
nhà đầu tư có thể ở vị trí tốt hơn để xác định các cơ hội có rủi ro cao
(công nghệ cao), rủi ro thấp (dịch vụ), tốc độ tăng trưởng theo định
hướng (máy tính), giá trị định hướng (dầu), không chu kỳ (hàng tiêu
dùng), theo chu kỳ (vận chuyển) hoặc thu nhập theo định hướng (năng suất
cao).
d. Biết ai là ai
Cổ phiếu di chuyển theo nhóm của nó. Bằng sự hiểu biết kinh doanh của
một công ty, các nhà đầu tư có thể ở vị trí tốt hơn để phân loại các cổ
phiếu trong nhóm ngành công nghiệp có liên quan. Doanh nghiệp có thể
thay đổi nhanh chóng và phân chia lợi nhuận của một công ty. Điều này
xảy ra với nhiều các nhà bán lẻ Internet thuần túy, mà không phải là
công ty thực sự Internet, nhưng không phải các nhà bán lẻ đơn giản. Biết
tình hình kinh doanh của một công ty và có thể đặt nó trong một nhóm có
thể làm cho một sự khác biệt rất lớn trong việc định giá tương đối.
XII. Nhược điểm của Phân tích cơ bản
a. Hạn chế thời gian
Phân tích cơ bản có thể cung cấp những hiểu biết tuyệt vời, nhưng nó có
thể là cực kỳ tốn thời gian. Các mô hình tốn nhiều thời gian thường đưa
ra định giá có mâu thuẫn với mức giá hiện tại phổ biến trên Wall
Street. Khi điều này xảy ra, nhà phân tích về cơ bản tuyên bố rằng toàn
bộ Wall Street đều nhận giá trị sai. Điều này không phải nói rằng không
có công ty bị định giá sai, nhưng thật là táo bạo khi ngụ ý rằng giá thị
trường là sai.
b. Công nghiệp và công ty cụ thể
Kỹ thuật định giá khác nhau tùy thuộc vào các nhóm ngành công nghiệp và
các công ty cụ thể. Vì lý do này, cần một mô hình và kỹ thuật khác nhau
được áp dụng cho các ngành công nghiệp khác nhau và các công ty khác
nhau. Điều này có thể tốn nhiều thời gian, có thể hạn chế số lượng
nghiên cứu có thể được thực hiện. Một mô hình được đặt mua có thể làm
việc tuyệt vời cho một nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP), nhưng không
có khả năng là mô hình tốt nhất để định giá một công ty dầu mỏ.
c. Tính chủ quan
Giá trị hợp lý được dựa trên các giả định. Bất kỳ sự thay đổi nào đến
giả định tăng trưởng hoặc bội số rất có thể làm thay đổi giá trị định
giá. Phân tích cơ bản nói chung là nhận thức được điều này và sử dụng
phân tích độ nhạy để trình bày các trường hợp định giá cơ bản, định giá
trong trường hợp trung bình và định giá trong trường hợp xấu nhất. Tuy
nhiên, ngay cả định giá trong trường hợp xấu nhất, hầu hết các mô hình
gần như luôn luôn lạc quan, câu hỏi duy nhất là bao nhiêu vậy. Biểu đồ
dưới đây cho thấy nhiều nhà phân tích cơ bản kiên quyết thế nào.
d. Phân tích thành kiến
Phần lớn các thông tin dung để phân tích đến từ chính công ty. Các công
ty thuê nhà đầu tư có mối quan hệ với quản lý để đối phó với cộng đồng
nhà phân tích và các thông tin phát hành. Như Mark Twain nói, "Có những
lời nói dối, những lời nói dối tồi tệ, và số liệu thống kê." Khi nói đến
việc xử lý dữ liệu hoặc công bố, các giám đốc tài chính và nhà quản lý
có mối quan hệ với nhà đầu tư là các chuyên gia. Chỉ có bên mua có xu
hướng mạo hiểm qua các số liệu thống kê của công ty.
Nhà phân tích bên mua làm việc cho các quỹ tương hỗ và các nhà quản
lý tiền. Họ đọc những báo cáo bằng văn bản của các nhà phân tích bên
bán, những người làm việc như các nhà môi giới lớn (CIBC, Merrill Lynch,
Robertson Stephens, CS First Boston, Paine Weber, DLJ). Các nhà môi
giới này cũng tham gia bảo lãnh phát hành và ngân hàng đầu tư cho các
công ty. Mặc dù có những hạn chế để ngăn ngừa xung đột lợi ích, các công
ty môi giới có một mối quan hệ liên tục với công ty. Khi đọc các báo
cáo này, điều quan trọng là xem xét và cân nhắc bất kỳ thành kiến một
nhà phân tích bên bán có thể có. Các nhà phân tích bên mua, mặt khác,
phân tích các công ty hoàn toàn từ một quan điểm đầu tư cho một nhà quản
lý danh mục. Nếu có một mối quan hệ với công ty, nó thường là theo các
điều kiện khác nhau. Trong một số trường hợp, đây có thể là một cổ đông
lớn.
e. Định nghĩa giá trị hợp lý
Khi định giá thị trường mở rộng ngoài định mức quá khứ, có áp lực điều
chỉnh tăng trưởng và giả định bội để bù vào. Nếu giá trị một cổ phiếu
Wall Street ở mức 50 lần lợi nhuận và giả định hiện nay là 30 lần, nhà
phân tích sẽ được áp lực để sửa đổi cao hơn giả định này. Có một câu
ngạn ngữ Wall Street cũ: giá trị của bất kỳ tài sản nào chỉ là những gì
một người nào đó sẵn sàng trả cho nó (giá hiện hành). Cũng như biến động
giá cổ phiếu, hãy tạo ra tăng trưởng và các giả định bội. Chúng ta tin
Wall Street và giá cổ phiếu hoặc nhà phân tích và giả định thị trường?
Sử dụng dòng tiền tự do hoặc thu nhập được sử dụng với một số nhân để
đi đến một giá trị hợp lý. Năm 1999, S & P 500 thường được bán cho
28 lần dòng tiền tự do. Tuy nhiên, bởi vì rất nhiều công ty đã và đang
mất tiền, nó đã trở thành phổ biến để định giá một doanh nghiệp như là
một bội số của doanh thu. Điều này sẽ có vẻ là OK, ngoại trừ bội là cao
hơn so với PE của nhiều cổ phiếu! Một số công ty được coi là món hời với
30 lần doanh thu.
XIII.Kết luận
Phân tích cơ bản có thể có giá trị, nhưng nó phải được tiếp cận một
cách thận trọng. Nếu bạn đang đọc bài nghiên cứu được viết bởi một nhà
phân tích bên bán, điều quan trọng là phải quen thuộc với các việc phân
tích đằng sau báo cáo. Tất cả chúng ta đều có những thành kiến cá nhân,
và nhà phân tích đều có một số loại sai lệch. Không có gì sai với điều
này, và các nghiên cứu vẫn có thể có giá trị lớn. Nhà đầu tư nên trở
thành người đọc có kỹ năng để loại bỏ các thông tin quan trọng và bỏ qua
các quảng cáo thổi phồng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét