Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014
Thị trường và đạo đức (Kì 10)
23:44
Hoàng Phong Nhã
No comments
Leonid V. Nikonov
Đạo lí của bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội thị trường.
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong
tiểu luận này, nhà triết học Nga Leonid Nikonov khảo sát có phê phán
một cách kĩ lưỡng ý tưởng về “bình đẳng” trong nền kinh tế thị trường và
thấy rằng phần lớn những lời phê phán mang tính bài tư bản dựa trên đòi
hỏi về bình đẳng – dù đấy có là bình đẳng về khả năng, bình đẳng về giá
trị hay về kết quả - là không phù hợp. Leonid Nikonov là giảng viên
triết học tại trường đại học tổng hợp quốc gia Altai ở Barnaul, cộng hòa
liên bang Nga. Ông giảng dạy các môn như triết học, bản thể học, nhận
thức luận, và triết học tôn giáo. Hiện nay ông đang viết tác phẩm với
nhan đề Khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tự do (Moral Measurements of Liberalism)
và đã từng công bố nhiều bài viết trên các ấn phẩm mang tính hàn lâm
của Nga. Năm 2010 ông thành lập và sau đó trở thành giám đốc Trung tâm
triết lí của tự do, trung tâm
này thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo và thảo luận cũng như những
chương trình khác ở Nga và Kazakhstan. Ông càng gắn bó hơn với công
việc đó sau khi giành giải nhất cuộc thi (ở Nga) diễn ra vào năm 2007
viết về đề tài Chủ nghĩa tư bản thế giới và quyền tự do của con người,
một cuộc thi tương tự như cuộc thi do quĩ Students For Liberty diễn ra
vào năm 2011 và tham gia giảng dạy cho khóa học về tự do diễn ra vào mùa
hè ở Alushta, Ukraine. (Chương trình lúc đó do Cato.ru, còn hiện nay
thì do InLiberty.ru sắp xếp). Năm 2011 ông được mời làm thành viên trẻ
của tổ chức Mont Pelerin Society, một tổ chức do 39 nhà khoa học thành
lập vào năm 1947 nhằm khôi phục lại những tư tưởng tự do truyền thống.
___
___________________________________________________________
Thị
trường không nhất thiết phải tạo ra kết quả như nhau cũng như không đòi
hỏi mọi người phải có khả năng như nhau. Nhưng để có thị trường thì đấy
là cái giá đáng phải trả. Bất bình đẳng không chỉ đơn thuần là kết quả
bình thường của sự trao đổi trên thương trường. Nó là điều kiện tiên
quyết của quá trình trao đổi, không có nó thì trao đổi sẽ chẳng còn ý
nghĩa gì. Hi vọng rằng những vụ trao đổi trên thương trường và xã hội
thị trường, trong đó tài sản được phân bố thông qua thị trường, sẽ tạo
ra sự bình đẳng là hi vọng hão huyền. Bình đẳng về những quyền căn bản,
trong đó có bình đẳng về quyền tự do trao đổi, là nhu cầu thiết yếu của
thị trường tự do, nhưng đừng nghĩ rằng thị trường tự do sẽ tạo ra kết
quả như nhau cho tất cả mọi người, cũng như thị trường tự do không cần
sự bình đẳng về điều kiện nào khác, ngoài bình đẳng trước pháp luật. Có
thể coi lí tưởng của quá trình trao đổi bình đẳng là sự bình đẳng về khả
năng ban đầu hoặc bình đẳng vể kết quả chung cuộc. Nếu hiểu theo nghĩa
bình đẳng về khả năng thì chỉ có những người ngang nhau về mọi khả năng
liên quan mới có thể tham gia vào quá trình trao đổi bình đẳng, bất kì
sự khác biệt nào cũng tạo ra trao đổi bất bình đẳng, đấy là lí do vì sao
một số người bác bỏ hợp đồng lao động – vì sự bất bình đẳng (và vì vậy
mà bất công) - giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nếu hiểu
theo nghĩa bình đẳng về kết quả chung cuộc thì nghĩa là chỉ những giá
trị ngang nhau mới được mang ra trao đổi hoặc sau khi trao đổi người ta
sẽ nhận được những giá trị như nhau. Thí dụ, cùng một số lượng hàng hóa
với chất lượng như nhau được chuyển từ phía này sang phía kia thì cuộc
trao đổi sẽ đáp ứng được điều kiện bình đẳng. Hãy tưởng tượng một cảnh
kì quái, trong đó hai sinh vật có hình dạng giống như con người, hoàn
toàn giống nhau (để tránh sự khác biệt tạo ra bất bình đẳng), chuyển
giao cho nhau những món đồ hoàn toàn giống nhau. Bỏ qua một bên xúc cảm
thẩm mĩ mà ta có thể có trước bức tranh trái tự nhiên này, ý nghĩa mà nó
có thể gợi ra là ý tưởng về trao đổi bình đẳng là ý tưởng đầy mâu
thuẫn. Trao đổi như thế chẳng làm thay đổi được gì, nó chẳng cải thiện
được địa vị của bất cứ bên nào, nghĩa là chẳng bên nào có lí do để trao
đổi hết. (Karl Marx khăng khăng nói rằng trao đổi trên thương trường là
dựa trên sự trao đổi của những giá trị ngang nhau, điều đó đã tạo ra một
lí thuyết kinh tế vô nghĩa lí và chẳng ăn nhập gì với thực tế hết). Gắn
trao đổi trên thương trường với nguyên tắc bình đẳng là đã tước đi
chính lí do của sự trao đổi, mà lí do là các bên trao đổi để lấy cái tốt
hơn. Về mặt kinh tế học, trao đổi là dựa trên sự công nhận về cách đánh
giá khác nhau của các bên tham gia trao đổi.
Tuy
nhiên, xét về mặt đạo đức, tư tưởng bình đẳng có thể là tư tưởng hấp
dẫn đối với một số người. Đặc điểm chung của nhiều đánh giá mang tính
đạo đức là chúng thường hình thành trên quan niệm về trách nhiệm, chỉ
quan tâm tới việc phải làm chứ không quan tâm tới khía cạnh kinh tế hay
cái thực sự hiện có hoặc thậm chí không quan tâm tới cái sẽ xuất hiện
sau đã làm cái phải làm. Thí dụ, theo Immanuel Kant thì trách nhiệm đòi
hỏi phải thực thi, bất chấp kết quả và hậu quả và thậm chí bất chấp cả
khả năng thực hiện cái cần phải làm. Nói “anh phải” cũng có nghĩa là nói
“anh có thể”. Cho nên, mặc dù bình đẳng trong trao đổi là lố bịch về
mặt kinh tế, nhưng nó vẫn (và đang) được coi là lí tưởng về mặt đạo đức.
Bình
đẳng – như một vấn đề đạo đức – là một chủ đề phức tạp. Chúng ta có thể
phân biệt hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất: bình đẳng là mối quan tâm
chủ yếu (những người theo chủ nghĩa bình quân) và quan điểm thứ hai:
bình đẳng không phải là chủ yếu (những người không theo chủ nghĩa bình
quân). Những người không theo chủ nghĩa bình quân không cần khẳng định
bình đẳng là đáng mong muốn hay không đáng mong muốn, họ chỉ bác bỏ việc
coi bình đẳng là mục đích nhằm loại bỏ những mục đích khác, đặc biệt là
tập trung vào việc bảo đảm cho sự bình đẳng về mặt vật chất. Những
người tự-do-phi-bình-quân-chủ-nghĩa khẳng định tầm quan trọng của một số
quyền bình đẳng, mà cụ thể là bình đẳng về những quyền căn bản, họ cho
rằng quyền bình đẳng này không phải là bình đẳng về kết quả, cho nên
cũng có thể coi họ là những người theo chủ nghĩa bình quân kiểu khác.
(Người dân trong các xã hội hiện đại và tự do coi bình đẳng về quyền là
nền tảng của luật pháp, của quyền sở hữu và lòng khoan dung). Những
người tự-do-phi-bình-quân-chủ-nghĩa cổ điển và những người theo phái tự
do cổ điển bảo vệ quan điểm của họ, họ coi đấy là hình thức bình đẳng
trong sáng nhất hay phù hợp nhất hoặc ổn định nhất, còn những người biện
hộ cho quyền bình đẳng trong “phân phối” tài sản lại tuyên bố rằng bình
đẳng của phái tự do là bình đẳng chỉ mang tính hình thức, bình đẳng
trên lời nói chứ không phải trên thực tế. (Họ cho rằng bình đẳng trước
pháp luật chỉ là nói về suy nghĩ và hành động của người ta chứ không nói
về tình trạng đáng mong ước của thế giới hay của phân bố tài sản. Coi
cách tiếp cận với quyền bình đẳng như thế chỉ là hình thức chứ không
phải là thực chất phụ thuộc vào quan niệm của người ta về vai trò của
thủ tục pháp lí và tiêu chuẩn hành vi).
Thật
khó thảo luận những vấn đề triết học phức tạp trước khi chúng được
trình bày một cách rõ ràng hoặc được đặt ra một cách đúng đắn. Các nhà
triết học cả ở phương Đông lẫn phương Tây đã nêu ra các học thuyết về
đạo đức cách đây hàng ngàn năm, tức là trước khi có những phân tích về
những đánh giá liên quan đến trách nhiệm và lập luận hiển ngôn. David
Hume là người đầu tiên thực hiện công trình nghiên cứu theo hướng này,
sau đó là Immanuel Kant và những triết gia theo trường phái thực chứng
khác như George Moore, Alfred Ayer, Richard Hare ..v..v..; công việc
nghiên cứu vẫn còn tiếp tục. Mặc dù cuộc tranh luận giữa những người
theo chủ nghĩa bình quân và những người không theo chủ nghĩa bình quân
không chỉ giới hạn trong việc xem xét quan hệ hợp lí giữa bình đẳng và
đạo đức, tìm hiểu mối quan hệ giữa bình đẳng và đạo đức sẽ là đóng góp
có giá trị vào cuộc tranh luận sôi nổi, đang diễn ra hiện nay, về việc
liệu dùng vũ lực để tái phân phối lượng tài sản bất bình đẳng do thị
trường tạo ra là việc làm hợp đạo lí hay là đáng phải bị cấm, nếu xét về
mặt đạo lí. (Điều này khác hẳn với vấn đề là tài sản của những người
chủ sở hữu hợp pháp bị nhà cầm quyền hay những kẻ tội phạm chiếm đoạt
phải được trả về cho khổ chủ).
Xin
xem xét vấn đề đạo đức của sự công bằng thông qua một câu hỏi đơn giản
sau đây: Tại sao bình đẳng - dù đấy là bình đẳng về khả năng ban đầu hay
bình đẳng về kết quả chung cuộc thì cũng thế - về mặt đạo đức, lại ưu
việt hơn là bất bình đẳng (hoặc ngược lại)? Muốn tìm được câu trả lời
cho cuộc tranh luận như thế thì phải hỏi trực tiếp cả những người theo
chủ nghĩa bình quân lẫn những người không theo chủ nghĩa bình quân.
Phạm
vi của những câu trả lời khả thể là có giới hạn. Trước hết, người ta có
thể quyết định những tỉ lệ số học cụ thể nào đó (về bình đẳng hoặc bất
bình đẳng) là tốt hơn những tỉ lệ khác. Thí dụ, tỉ lệ giữa X với Y là
đức hạnh hơn nếu giá trị của các biến số này bằng nhau và kém đức hạnh
hơn nếu các biến số này không bằng nhau, nghĩa là tỉ lệ 1:1 tốt hơn tỉ
lệ 1:2 (và càng đức hạnh hơn so với tỉ lệ 1:10). Mặc dù dường như quan
điểm như thế là rất rõ ràng, nhưng vấn đề đạo đức lại không dễ giải
quyết như thế. Các giá trị không thể được rút ra từ những biểu thức toán
học, bản thân những biểu thức này vốn đã trung tính về mặt đạo đức rồi.
Khẳng định rằng tỉ lệ toán học này là ưu việt hơn tỉ lệ toán học kia là
việc làm cực kì tùy tiện, chẳng khác gì hành động kì quặc của những đồ
đệ của Pythagor, những người đã phân chia các con số thành giống đực,
giống cái, đáng yêu, tốt, xấu ..v..v..
Tốt
hơn là không nên tập trung vào sự bình đẳng về khả năng ban đầu hay kết
quả chung cuộc mà nên tập trung vào đức hạnh của từng cá nhân, coi đấy
là cơ sở để đánh giá những mối quan hệ (trong đó có quan hệ trao đổi)
giữa các cá nhân với nhau. Theo đó: không ai có đức hơn (hoặc kém đức
hơn) người khác hay ngược lại, một số người có đức hơn (hoặc kém đức
hơn) những người khác. Trên cơ sở đó ta có thể nói rằng đòi hỏi bình
đẳng về khả năng ban đầu hay kết quả là đáng mong muốn hay không đáng
mong muốn. Cả hai quan điểm đều cùng hội tụ về một điểm là cần tái phân
phối bằng bạo lực nhằm xóa bỏ hay thiết lập sự bất bình đẳng, trong cả
hai trường hợp, luận cứ quan trọng nhất là đức hạnh của các bên, mặc dù
giữa ý tưởng về đạo đức của người ta và địa vị hiện có của người ta là
những khái niệm cách nhau một trời một vực, không thể nào kết nối với
nhau được. Nói một cách cụ thể hơn thì vấn đề chính là quan hệ giữa, một
bên là đức hạnh và bên kia là số lượng hay giá trị tài sản mà một người
nào đó đang nắm giữ. Chúng ta có thể tiến thêm một bước nữa mà hỏi rằng
vì sao mỗi buổi sáng hai người đức hạnh như nhau lại phải uống cùng số
lượng hay cùng số tiền cà phê như nhau? Hoặc liệu một người nhân từ và
ông hàng xóm keo kiệt của ông ta, cả hai đều có đạo đức như nhau (hoặc
họ có như nhau không?), lại phải hay không được sở hữu số chậu lan như
nhau? Những người có đạo đức như nhau dường như không có biểu hiện gì rõ
ràng là họ bình đẳng về khả năng hay tiêu dùng hoặc tài sản mà họ nắm
giữ là như nhau. Hãy xem xét quan hệ của hai người chơi cờ có đạo đức
như nhau. Đạo đức như nhau có phải là tài nghệ như nhau hay ván cờ nào
cũng hòa hay không? Hay họ phải theo cùng luật chơi, và điều này sẽ kéo
theo là không thể có qui định mang tính qui chuẩn là tất cả các ván cờ
đều sẽ hòa. Như vậy là, không có mối liên hệ nào giữa đức hạnh với khả
năng ban đầu hay kết quả cụ thể. Nếu chúng ta tập trung chú ý vào hành
vi hay luật lệ chứ không chú ý vào khả năng ban đầu hay kết quả chung
cuộc thì chúng ta sẽ thấy là tình hình công việc là do hành động, sự lựa
chọn và (nhất là trong những trường hợp tội phạm) ý định. Một người có
bao nhiêu tiền trong túi và số tiền này lớn hơn hay nhỏ hơn số tiền
trong túi của người hàng xóm, tự bản thân nó không phải là thành tố mang
tính đạo đức. Vấn đề là số
tiền đó từ đâu mà ra. Một ông trùm tư bản và một người lái taxi đều có
thể được coi là người có đạo đức hay không đạo đức, tất cả phụ thuộc vào
việc là hành động của người đó có tương thích với những tiêu chuẩn đạo
đức phổ quát hay là không, thí dụ như họ có tôn trọng những qui tắc công
lí và những tiêu chuẩn đạo đức vốn có trong họ và trong những người
khác hay không. Người ta ca ngợi hay phê phán một người không phải vì
anh ta giàu hay nghèo mà vì hành động mà anh ta làm. Địa vị khác nhau
tạo ra khả năng khác nhau trong việc thực hiện những hành vi tốt hay
xấu, đạo đức hay vô đạo, công bằng hay bất công, nhưng những tiêu chuẩn
vừa nói bên trên - chứ không phải khả năng ban đầu hay kết quả cuối cùng
– mới chi phối hành vi của con người. Sử dụng một cách bình đẳng các
tiêu chuẩn đạo đức là cơ sở để chúng ta đánh giá hành vi của một người
là có phù hợp đạo lí hay không. Bình đẳng về mặt đạo đức nghĩa là tội ác
là tội ác, dù người lái taxi hay một ông trùm tư bản thực hiện thì cũng
vậy mà thôi, và buôn bán trung thực tạo ra lợi nhuận vẫn là buôn bán
trung thực, do hai người lái taxi hay hai ông trùm tư bản hoặc một ông
trùm tư bản và một người lái taxi buôn bán với nhau thì cũng thế.
Xin
quay trở lại với quan hệ giữa tài sản và bình đẳng. Tài sản mà người ta
có có thể là kết quả của hành vi đúng đắn hay dùng bạo lực cướp đoạt.
Trao đổi trên thị trường tự do có thể tạo ra bất bình đẳng hơn hoặc bình
đẳng hơn, nhà nước can thiệp hoặc tái phân phối cũng có thể tạo ra bất
bình đẳng hơn hoặc bình đẳng hơn. Không thể nói trước được là những hình
thức tương tác như thế là bình đẳng hay bất bình đẳng. Một doanh nhân
có thể tạo ra của cải và vì vậy mà giàu hơn người khác, ngay cả khi tài
sản được tạo ra cũng có lợi cho người kia. Trao đổi trên thị trường tự
do có thể làm cho mọi người bình đẳng hơn: thịnh vượng lan rộng và xói
mòn dần đặc quyền đặc lợi bất công mà một số người được thừa hưởng từ
những hệ thống cũ. Một người ăn cắp của một người nào đó và vì vậy mà có
nhiều tài sản hơn nạn nhân, kết quả là bất bình đẳng hơn; còn nếu hắn
lại bị mất cắp thì sẽ có bình đẳng hơn. Tương tự như thế, sự can thiệp
của các lực lượng cưỡng bức có tổ chức của nhà nước có thể tạo ra sự bất
bình đẳng nghiêm trọng về tài sản – bằng cách chà đạp quyền lựa chọn
của những người tham gia trên thương trường (chủ nghĩa bảo hộ, tài trợ
và “độc quyền để thu lợi”) hoặc đơn giản là sử dụng bạo lực và cưỡng
bức, như đã từng xảy ra trong các nước theo chế độ cộng sản. (Tuyên bố
hi sinh vì bình đẳng không có nghĩa là thực sự tạo ra bình đẳng, như
kinh nghiệm cay đắng của hàng chục năm qua đã cho thấy).
Dù
hệ thống pháp luật hay hệ thống kinh tế có làm cho người ta tiến đến
gần hơn hay xa hơn bình đẳng về thu nhập thì đấy vẫn chỉ là vấn đề thực
tiễn chứ không phải là vấn đề lí thuyết. Báo cáo về mức độ tự do kinh tế
thế giới (The Economic Freedom
of
the World Report -www.freetheworld.com) đo mức độ tự do kinh tế và sau
đó tiến hành so sánh nó với những chỉ số thể hiện mức độ thịnh vượng
khác nhau (tuổi thọ, trình độ học vấn, mức độ tham nhũng, thu nhập tính
trên đầu người..v.v..). Số liệu cho thấy rằng dân chúng trong những nước
có nền kinh tế tự do nhất không chỉ giàu có hơn hẳn dân chúng các nước
có nền kinh tế ít tự do hơn, mà bất bình đẳng về thu nhập (cụ thể là
phần thu nhập quốc dân mà 10% người nghèo nhất được hưởng) không phải là
đặc điểm của những chính sách khác nhau, nhưng tổng thu nhập của họ thì
lại là đặc điểm như thế. Nếu chia các nước trên thế giới thành 4 nhóm
(mỗi nhóm chiếm 25% dân số thế giới) thì phần thu nhập quốc dân mà 10%
người nghèo nhất trong nhóm nước có nền kinh tế ít tự do nhất (trong đó
có những nước như Zimbabwe, Myanmar và Syria) được hưởng trong năm 2008
(năm gần nhất có số liệu) là 2,47%; trong nhóm tiếp theo (đứng tứ ba về
tự do kinh tế) con số đó là 2,19%; nhóm tiếp theo (đứng thứ hai về tự do
kinh tế) con số đó là 2,27%; còn nhóm tự do nhất là: 2,58%. Mức độ dao
động không phải là lớn. Có thể nói bất bình đẳng về kinh tế dường như
miễn nhiễm đối với những qui định của chính sách kinh tế. Nhưng mặt
khác, tổng thu nhập mà 10% người nghèo nhất được hưởng thì lại khác nhau
một trời một vực, biến số này chắc chắn là không miễn nhiễm trước các
chính sách kinh tế. Người nằm trong diện 10% những người nghèo nhất
trong những nước ít tự do kinh tế nhất chỉ có thu nhập trung bình là 910
dollar một năm, trong khi người nằm trong diện 10% người nghèo nhất
trong những nước có nền kinh tế tự do nhất lại có thu nhập trung bình
hàng năm lên tới 8.474 dollar. Dường như đối với người nghèo thì nghèo ở
Thụy Sỹ vẫn tốt hơn là nghèo ở Syria.
Dù
bạn và tôi có khởi đầu bình đẳng trước khi trao đổi hay có tài sản như
nhau sau khi trao đổi thì điều đó, tự nó, cũng không phải là vấn đề đạo
đức. Nhưng mặt khác, không đối xử một cách bình đẳng với những người
bình đẳng với nhau về mặt đạo đức và không để họ được bình đẳng trước
pháp luật – tất cả đều nhằm tạo ra thu nhập bình đẳng hơn (đây dường như
là một công trình không thành công vì khó mà thao túng được kết quả) –
chắc chắn là vấn đề đạo đức rồi. Đấy chính là vi phạm quyền bình đẳng về
mặt đạo đức.
Cuộc
tranh cãi ồn ào nhất về bất bình đẳng về thu nhập lại không phải là
tranh cãi về bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo trong những xã
hội tự do về kinh tế mà là tranh cãi về khoảng cách khổng lồ giữa tài
sản của người dân trong những xã hội tự do về mặt kinh tế và tài sản của
người dân trong các xã hội không được tự do về mặt kinh tế. Khoảng cách
giàu nghèo chắc chắn có thể được giải quyết bằng cách thay đổi luật lệ,
nghĩa là thay đổi chính sách kinh tế. Giải phóng người dân trong những
xã hội không được tự do về kinh tế sẽ tạo ra một lượng tài sản rất lớn,
điều đó sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa những người giàu trên thế giới
và người nghèo trên thế giới hơn bất kì chính sách có thể tưởng tượng
được nào khác. Hơn nữa, điều đó còn có những hậu quả tích cực trong việc
thực thi công lí vì nó chấm dứt việc đối xử bất bình đẳng với người dân
trong các nước có bộ máy cai trị tồi vì nạn ô dù, tập quyền, chủ nghĩa
quân phiệt, chủ nghĩa xã hội và bạo lực. Tự do kinh tế là bình đẳng
trước pháp luật và quyền của mọi người trong việc sản xuất và trao đổi
đều được tôn trọng như nhau, đấy là tiêu chuẩn công lí đúng đắn dành cho
những con người đức hạnh.
Nguồn: http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét