Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013
Tổng quan về triết học Hi Lạp cổ đại
Nền triết học Hy Lạp cổ đại là
khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học
phương tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học
nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau này.
Nền triết học Hy Lạp cổ
đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết
học phương tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết
học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau
này. Nền triết học trung cổ là khoảng lặng của những phách nhạc thời
gian trải qua hàng ngàn năm. Rồi mới được thăng hoa lên những nốt thăng
cung bậc là thời kỳ phục hưng. Đây là giai đoạn quan trọng bừng dậy sau
dấu lặng mà khoảng trắng quá dài. Từ những âm ba của những nốt nhạc
thăng trầm đó mà ta có cả nền triết học cận và hiện đại như nay. Trong
bản nhạc giao hưởng đầy tính bác học của triết học phương tây, mà khúc
dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hoàng đó là những trường phái triết học
Hy Lạp cổ đại, nó bức ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu sắc thần linh
để khảy lên bằng chính đôi tay của người phàm tục. Những đôi tay vàng ấy
được phản ánh qua những triết gia dệt nên những trang bất hủ bởi thời
gian, một trong những đôi tay đẹp hơn tất cả đôi tay thời bấy giờ là
Socrate, triết lý của ông đã mỹ miều và cái chết của ông như là linh hồn
của bản giao hưởng bức ra khỏi phím đàn bay xa vào không gian bất tận.
Ta muốn tìm hiểu nét nổi bậc của khúc dạo đầu đầy quyến rũ đó không gì
khác hơn là hãy nghiên cứu khái quát về Các Trường Phái Triết Học Hy Lạp cổ đại, cuộc đời và cái chết của triết gia Socrate.
1- Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1Về tự nhiên
Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học
phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam
bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn
đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc , Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy
núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athen.
Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu
thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban
Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát
triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi
lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven
biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành
một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương nghiệp phát triển,
một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều triết gia mà
triết lý của họ trở nên bất hủ.
1.2- Về kinh tế
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về
khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài
vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao
và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII – VI BC, đây
là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân
loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt
được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào,
chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân
công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn
nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng
rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối
thế kỷ VIII BC là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu
với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có những khả năng
của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao
hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp
giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp,
không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.(1)
1.3- Về chính trị - xã hội
Từ điều kiện kinh tế đã
dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra làm hai
giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành
lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều
nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và
Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ
đại.
Thành bang Athen nằm ở
vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên
đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái
nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa
là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Thành Sparte nằm ở vùng
bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô
quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã
xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn
khốc đối với nô lệ.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành
phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và
cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã
lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất
nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của
tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác
nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia
vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía
Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II
BC, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La
Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được” .
Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến
vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Chính vì
thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai
Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực,
những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”.
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền
văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực
khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện
đại.
Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn
học thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở
kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu
tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy
Lạp cổ đại.
Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị.
Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Athen.
Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên
văn, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago,
Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại
một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
2. Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết
học Hy Lạp cổ đại, và cũng là điểm xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn
chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các
trào lưu, trường phái, duy vật - duy tâm, biện chứng - siêu hình, vô
thần - hữu thần.
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về
thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy
ra trong nó.
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
- Coi trọng vấn đề về con người.
Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện
chứng sơ khai. Tách ra khỏi yếu tố thần linh thống trị con người từ
xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp là triết gia Socrate. Ông đã đề
cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia có xu hướng hướng
ngoại thì Socrate quay về hướng nội, ông đã đề cập đến đạo đức con
người.
3-Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
3.1-Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái
Milet- trường phái Heraclite, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao
như trong trường phái Nguyên tử luận.
3.1.1-Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các
nhà triết học đầu tiên xứ Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm
chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ huyết mạch giao thông, là
cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa của thời kỳ
chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái
triết học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như:
Thales, Anaxi-mène và Anaximandes. Đóng góp quan trọng nhất của trường
phái này là đã đặc nền móng do sự hình thành các khái niệm triết học để
các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong phú thêm những khái
niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt đối lập
v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế giới để
giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên
vật chất duy nhất.
3.1.2-Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC)
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn
lên trong một gia đình quý tộc chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở
thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất
phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ
không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà
nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”.
Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các
phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất
phát là đóng góp của triết học Héraclite vào kho tàng tư tưởng của nhân
loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”.
3.1.3-Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới
theo tinh thần duy vật Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500
– 428 TCN ) cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các
trường phái như Milet - trường phái Héraclite xây dựng quan niệm đa
nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles thừa nhận
khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí.
Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ
khai, nghĩa là còn hạn chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi
thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định
bằng cảm tính.
3.1.4-Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy
Lạp cổ đại được thể hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III
BC. Leucippe là người sáng lập và Démocrite là người kế thừa và phát
triển.
Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi sự vật
được cấu thành từ những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối
không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức,
nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư tưởng của ông không được
hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua những trang viết của các
học trò ông tổng hợp. Démocrite (460 – 370 BC) là học trò của Leucippe
đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới.
Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
3.2-Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâmkhách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
3.2.1-Trường phái Pythagore
Pytagore (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học,
toán học uyên bác. Sinh ra và lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của
toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất
của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất định, con số có trước
vạn vật. Và tư tưởng Pythagore cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của
linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vôn có của mọi sự vật hiện
tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ,
đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và công, sáng và
tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện.Mười cặp đối lập này chia làm
bốn lĩnh vực là: toan học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt
đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pythagore đã
đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy
Lạp.
3.2.2-Trường phái Elée
Trường phái Elée (V – IV BC) do Xénophane thành lập
theo chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó Parménide phát triển theo chủ nghĩa
duy tâm và được Zeno nhiệt thành bảo vệ và phát huy.
Xénophane (570 – 478 BC) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà triết học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất.
Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn
loài. Parménide (500 – 449 BC) xuất thân trong một gia đình trí thức
giàu có ở Elée. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Zeno (490 – 430 BC), là người bảo vệ nhiệt thành
trường phái Elée. Ông đưa ra những Aporic nghĩa là tình trạng không có
lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
3.2.3-Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường
chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Athen và hệ
thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng
bởi Socrate và Platon.
Socrate (469 – 399 BC), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự nhiên,
ông dành phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức. “Con người hãy nhận
thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platôn
(427 – 347 BC), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông
trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy
tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung
chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.
3.3-Chủ nghĩa nhị nguyên
Triết học Aristote :
Aristote (384 – 322
TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò xuất sắc của Platon.
Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platon. Vì ý niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platon, ông cho rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”.
Triết học của Platon còn thể hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự
nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và
biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện ra. Vận động
không tách rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự nhiên có
nhiều hình thức, sự tăng và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi
trong không gian, sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết học của ông còn
hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng
ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa học Phương Tây phát triển.
4-Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại
4.1- Ưu điểm:
-Triết học cổ hy lạp như
hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời của người dân Hy
Lạp. Tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người.
-Vai trò của tự nhiên và
con người được đề cập một cách khách quan. Nhằm đi đến tìm hiểu con
người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
-Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
-Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
-Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
-Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?
4.2-Hạn chế
-Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
-Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
-Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần linh.
C-KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp-La Mã
cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc, nối những bến bờ
triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến
cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết học Hy Lạp cổ đại chia
làm ba thời kỳ. Thời ky tiền Socrate, thời kỳ Socrate là thời kỳ cực
thịnh, thời kỳ hậu Socrate. Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia
nổi bậc như: Thales, Anaximandre, Heraclite, Pythagore, Xenophane,
Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle, Democrite, Socrate, Platon,
Aristote…Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn
bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cả bề mặt và
bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Điều đó
làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất
hủ. Marx nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”.
THÍCH TRÍ HUỆ (HOALINHTHOAI.COM)


19:02
Hoàng Phong Nhã
0 nhận xét:
Đăng nhận xét