Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013
Constantin Arshin: Ralf Gustav Dahrendorf - một người của thời đại vừa ra đi
13:37
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Cái chết gần đây của ông vua
nhạc Pop Michael Jackson Micheal đã làm lu mờ một sự kiện không kém phần
quan trọng - đối với hàng ngàn nhà xã hội học và chính trị học trên thế
giới thì có thể là sự kiện còn quan trọng hơn - đấy là sự ra đi vĩnh
viễn ở tuổi 81 của Nam tước Ralf Gustav Dahrendorf, một trong những nhà
xã hội học hàng đầu của thế giới trong nửa sau thế kỉ XX.
Cái chết của ông không chỉ là
mất mát to lớn đối với môn xã hội học mà còn là sự rời xa thêm một bước
thời đại của những người đã tạo ra trong nửa sau thế kỉ XX, thứ nhất,
môn xã hội học và thứ hai, hiện thực chính trị mà sau đó đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của chính ngành khoa học này
Vài dòng tiểu sử
Ralf Dahrendorf sinh ngày 1
tháng 5 năm 1929 tại thành phố Hamburg, tức là ông sinh cùng năm với một
người đồng bào nổi tiếng hơn của ông (đấy là nói đối với nước Nga) là
Jürgen Habermas. Nhưng họ khác nhau ở chỗ Habermas, nhờ có cha mẹ giàu
có, đã được đưa sang nước Thuỵ Sĩ trung lập; còn Darendorf thì cùng với
bố, vốn là nghĩ sĩ Quốc hội Đức (Bundestag), bị đưa vào trại tập trung
vì đã có những hoạt động chống phát xít. Có thể chính những trải nghiệm
đầy đau khổ và những cảnh tượng kinh hoàng của trại tập trung đã có ảnh
hưởng quyết định đối với thế giới quan của chàng trai Dahrendorf, góp
phấn biến cậu thành một người theo trường phái tự do kiên định. Nếu
không thì thật khó giải thích vì sao sau khi đã tốt nghiệp đại học tổng
hợp Hamburg vào năm 1952 và bảo vệ xong luận án tiến sĩ ông còn đến
Trường kinh tế London theo học Karl Popper, một trong những nhà triết
học nổi tiếng nhất thế giới thế kỉ XX. Những năm làm việc dưới sự lãnh
đạo của Karl Poper đã kết thúc với việc bảo vệ thành công luận án mang
tên: “Lao động không có tay nghề trong nền công nghiệp Anh quốc”. Nhưng
luận án này cũng chưa tạo nên tên tuổi của ông.
Dahrendorf chỉ thành người nổi
tiếng sau khi liên kết được chủ nghĩa Marx với nguyên tắc kiểm sai do
Popper đưa ra, mà điều này theo qua điểm của chính Popper là bất khả
thi. Khó khăn là ở chổ, theo quan điểm của Popper thì tất cả các luận
điểm của chủ nghĩa Marx đều không thể kiểm sai, nghĩa là không thể bác
bỏ được, cả về mặt lí thuyết lẫn thực tế. Không thể bác bỏ được chủ
nghĩa Marx là sai về mặt lí thuyết vì những người mác-xít tin tưởng
tuyệt đối vào sự đúng đắn của học thuyết (như Lenin đã nói: “Chủ nghĩa
Marx vô địch vì nó đúng”) và cũng không thể bác bỏ được về mặt thực tế
vì mặc dù thực tế bác bỏ chủ nghĩa Marx (cụ thể là Marx khẳng định rằng
cách mạng xã hội chủ nghĩa phải giành thắng lợi ở nước công nghiệp phát
triển thì cách mạng xã hội chủ nghĩa lại giành thắng lợi ở nước Nga lạc
hậu) nhưng những người mác-xít lại cố tình đánh tráo học thuyết của mình
cho nó phù hợp với thực tế. Mà làm như thế, theo quan điểm của Popper,
là hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Nhưng cố gắng của Dahrendorf đã
đem tới thành công. Dĩ nhiên là ông không tự phụ đến nỗi đem nguyên lí
kiểm sai áp dụng cho toàn bộ học thuyết của người đồng bào nổi tiếng của
mình. Dahrendorf chọn lí thuyết về đấu tranh giai cấp (một trong ba
thành tố của chủ nghĩa Marx, do Lenin đưa ra là: Triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội) làm đối tượng nghiên cứu của mình.
Kết quả của quá trình nghiên cứu là hai tác phẩm: Marx in Perspective.
Die Idee des Gerechten im Denken von Karl Marx (tạm dịch: Marx trong
viễn cảnh. Tư tưởng công bằng trong tư duy của Marx) xuất bản năm 1953
và Soziale Klassen und Klassenkonflikt in der industriellen Gesellschaft
(Giai cấp xã hội và xung đột giai cấp). Chính tác phẩm thứ hai này đã
buộc giới hàn lâm phải quan tâm đến một tài năng vừa xuất hiện.
Chẳng bao lâu sau, mà cụ thể là
vào năm 1958, Dahrendorf được mời làm trưởng khoa ngay trong trường đại
học tổng hợp Hamburg, quê hương ông. Hai năm sau ông chuyển đến thành
phố Tubingen và đến năm 1966 thì chuyển sang thành phố Konstanz. Ông giữ
chức giám đốc Trường kinh tế London từ năm 1974 đến năm 1984, đây có lẽ
cũng là chức vụ cao nhất mà ông giữ trong lĩnh vực khoa học. Nhưng ngay
cả sau đó ông vẫn còn làm công việc hành chính, cụ thể là có thời gian
ông từng giữ chức hiệu trưởng St. Antony's College thuộc đại học Oxford.
Nhưng khoa học cũng như quản lí
không phải là những lĩnh vực quan tâm duy nhất của Dahrendorf. Là con
một chính trị gia, ông không thể không trở thành một chính trị gia
chuyên nghiệp. Trong những năm 1968-1969 ông là từng là thành viên nghị
viện khu vực Baden-Wuertenberg, nhưng chỉ một năm sau đó ông đã được
Đảng Dân chủ - Tự do, đại diện cho quyền lợi của những người theo trường
phái tự do Đức, giới thiệu làm ứng viên và được bầu vào Quốc hội Đức
(Bundestag). Nhưng Dahrendorf ở đây cũng không lâu vì vào năm 1970 ông
đã được bầu làm thành viên Uỷ hội châu Âu (European Commission). Nhưng
đỉnh cao danh vọng chỉ đến với Dahrendorf sau khi ông nhận quốc tịch Anh
và được phong tước danh hiệu quí tộc, tức là ông nghiễm nhiên trở thành
thành viên Viện quí tộc cho đến hết đời.
Dahrendorf đã đóng góp rất nhiều
công sức cho việc định hình chủ nghĩa tự do thời hậu chiến ở châu Âu.
Cụ thể là, tư tưởng của ông đã được những người chắp bút bản Tuyên ngôn
Hamburg của những người dân chủ tự do Đức và những tài liệu mang tính
cương lĩnh của Quốc tế tự do sử dụng. Những người theo trường phái tự do
ở Anh, tức là chính những người kí kết liên minh với “những người lao
động mới”, cũng lấy tư tưởng của ông làm kim chỉ nam cho hành động.
Nhưng tất cả chúng ta vẫn mãi mãi nhớ đến Dahrendorf không phải như một
chính trị gia mà như một nhà xã hội học tài ba nhất, một trong những
người đặt nền móng cho môn xung đột học hiện đại.
Hai phát minh vĩ đại của Dahrendorf
Cơ sở của lí thuyết xung đột,
tức là lí thuyết đã làm rạng danh tên tuổi của Dahrendorf, là lời khẳng
định rằng chính cơ cấu của xã hội tạo ra các xung đột xã hội. Câu cách
ngôn mà hiện nay chúng ta chấp nhận như là định đề này, trong những năm
1950, khi xuất hiện tác phẩm Giai cấp xã hội và xung đột giai cấp, đã bị
mô hình cơ cấu-chức năng ở Mĩ và sau đó là ở châu Âu coi là tà đạo. Lúc
đó những người theo trường phái cơ cấu-chức năng cho rằng xã hội là các
tổ chức tĩnh, không bị những thay đổi, đặc biệt là những thay đổi diễn
ra trong lòng xã hội đó, tác động. Tất nhiên là những sự kiện diễn ra
vào năm 1968 đã chứng tỏ đấy là quan niệm sai lầm, nhưng vào thời kì
“vàng son” 1948-1968 chẳng có mấy nhà xã hội học tên tuổi nghĩ đến khả
năng xảy ra những biến động xã hội lớn. Nhưng lí thuyết do Dahrendorf
đưa ra đã lường trước những hiện tượng như thế. Có thể đấy cũng là một
trong nhữg lí do làm cho các tư tưởng của nhà xã hội học Đức trở thành
nổi tiếng trên thế giới. Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm cho Dahrendorf
trở thành nổi tiếng là ông đã sử dụng di sản Marx, đã cố gắng “gắn” các
thành tố của học thuyết mác-xít vào môn xã hội học mang tính hàn lâm.
Lí thuyết xung đột của Marx và
của Dahrendorf có nhiều điểm giống nhau. Cả hai lí thuyết đều có cách
hiểu như nhau về quá trình hình thành xung đột. Nhưng nếu Marx coi nguồn
gốc của xung đột là việc phân phối không đồng đều phương tiện sản xuất
xã hội thì Dahrendorf khẳng định rằng nguồn gốc của xung đột chính là sự
phân phối không đồng đều quyền lực và uy tín, nghĩa là cội nguồn của
xung đột nằm trong mối quan hệ giữa những vai trò mà một xã hội cụ thể
nào đó chấp nhận.
Phù hợp với quan điểm đó, Dahrendorf nêu ra một loạt tác nhân có ảnh hưởng quan trọng đối với mức độ gay gắt của xung đột:
1. Mức độ gay gắt của xung đột
phụ thuộc vào khả năng biểu hiện của nó. Dahrendorf khẳng định rằng xung
đột xã hội càng được thể hiện ra thì mức độ gay gắt càng giảm đi. Vì
“Nguy hiểm nhất là xung đột chưa được hiểu một cách thấu đáo, chỉ một
phần của nó được biểu lộ ra dưới dạng những vụ bùng nổ mang tính cách
mạng hay giả cách mạng”.
2. Mức
độ gay gắt của xung đột phụ thuộc vào mức độ năng động của xã hội, có
thể quan sát được trong một xã hội cụ thể. Dahrendorf tin rằng mức độ
năng động cao góp phần nhanh chóng loại bỏ được hoàn cảnh xung đột. Từ
đó ông rút ra kết luận: “các xung đột trên cơ sở khác biệt về tuổi tác
và giới tính bao giờ cũng gay gắt hơn là xung đột trên cơ sở khác biệt
về nghề nghiệp hay là về nguyên tắc, xung đột về tín ngưỡng bao giờ cũng
gay gắt hơn xung đột về khu vực”.
3.
Mức độ gay gắt của xung đột phụ thuộc vào mức độ đa nguyên trong một xã
hội cụ thể. Mức độ đa nguyên càng cao thì mức độ gay gắt của xung đột
càng giảm. Không thể nào khác được. Lấy thí dụ như trong một xã hội cực
kì độc đoán, nơi không tồn tại bất cứ lĩnh vực xã hội độc lập nào thì
bất cứ xung đột nào cũng bao trùm lên toàn bộ các lĩnh vực trong xã hội
đó. Bất cứ sự thay đổi nào trong lĩnh vực kinh tế cũng dẫn đến những
thay đổi trong lĩnh vực chính trị và ngược lại. Nói cách khác, trong xã
hội đó người ta không thể thua trong lĩnh vực này mà lại thắng trong
lĩnh vực khác được. Kẻ chiến thắng giành được toàn bộ (Được làm vua,
thua làm giặc – ND). Vì người ta phải mang cả mạng sống ra đánh cược cho
nên cuộc đấu tranh sẽ cực kì tàn bạo và khốc liệt.
Nhưng Dahrendorf tin rằng không
được đàn áp, dù xung đột dù có tàn bạo và khốc liệt đến đâu. Vì đàn áp
sẽ chỉ làm cho xung đột trở thành bệnh di căn, nó sẽ đầu độc toàn bộ cơ
thể xã hội. Ta cần phải điều khiển chứ không phải là đàn áp xung đột.
Điều khiển cho phép, thứ nhất, kiểm soát ngay cả những xung đột nhạy cảm
nhất và thứ hai, chuyển lực lượng phá hoại của xung đột thành lực lượng
sáng tạo, biến xung đột thành lực lượng phục vụ xã hội. Muốn cho chương
trình điều khiển xung đột thành công thì cần phải thực hiện một loạt
điều kiện: "Tất cả mọi người tham gia đều phải công nhận rằng xung đột
nói chung, cũng như những mâu thuẫn cụ thể nào đó, là những hiện tượng
tất yếu, hơn thế, còn là những hiện tượng có thể biện minh được và hữu
ích nữa. Những người không chấp nhận xung đột, coi xung đột là những
lệch lạc bệnh hoạn, sẽ không thể nào điều khiển được xung đột. Chấp nhận
tính tất yếu của xung đột không thôi chưa đủ. Cần phải nhận chân được
nguyên lí sáng tạo, hữu ích của xung đột. Nghĩa là khi can thiệp, ta chỉ
được quyền điều khiển những biểu hiện của xung đột chứ không được tìm
cách loại bỏ các nguyên nhân đưa tới xung đột. Nguyên nhân của xung đột –
khác với những biểu hiện cụa thể của nó – không thể nào loại trừ được.
Cho nên điều khiển xung đột là tìm ra những hình thức biểu hiện của nó
và chuyển nó sang những hình thức biểu hiện khác. Kết quả là xung đột đã
được chuyển sang những kênh khác”.
Dĩ nhiên là lí thuyết xung đột
không phải là phát minh duy nhất và có thể không phải là phát minh quan
trọng nhất của Dahrendorf. Ông còn một phát kiến quan trọng nữa, thường
được gọi là “giả thuyết Dahrendorf”. Tư tưởng chủ đạo của giả thuyết này
là trên thế giới không có những xã hội hoàn toàn giống nhau, mỗi xã hội
là một hiện tượng đặc thù vì mỗi xã hội đều sống và phát triển trong
những điều kiện đặc thù. Như vậy là, khẳng định do các lí thuyết gia
hiện đại hoá và kinh tế học đưa ra và cũng là cơ sở của các lí thuyết
này là những sáng kiến trong lĩnh vực kinh tế được áp dụng một cách
thành công ở các xã hội công nghiệp phát triển cũng có thể áp dụng một
cách thành công ở các xã hội nghèo nàn và lạc hậu là sai. Nghĩa là không
có những giải pháp kinh tế phổ quát và trong khi soạn thảo chính sách
kinh tế cần phải tính đến đặc thù của từng hoàn cảnh cụ thể.
Tất nhiên đóng góp của con người
vừa vĩnh viễn ra đi vào ngày 17 tháng 6 năm nay (2009) ở Cologne không
dừng lại ở đấy. Nhưng chỉ cần như thế cũng đủ thấy cộng đồng thế giới
vừa mất một trong những nhà bác học sáng giá nhất, vừa mất một người có
thể hiểu và giải thích được bản chất của xã hội mà chúng ta đang sống.
Nguồn: http://russ.ru/pole/SHag-iz-epohi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét