Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013
TƯƠNG LAI CỦA SỨC MẠNH MỸ
10:45
Hoàng Phong Nhã
No comments
(Tạp chí “Foreign Affairs” số 11-12/2010)
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Chủ Nhật, ngày 30/01/2011
Thế
kỷ 21 bắt đầu bằng một sự phân phối rất không đồng đều các nguồn lực
sức mạnh. Với 5 phần trăm dân số thế giới, Mỹ chiếm khoảng một phần tư
sản lượng kinh tế toàn cầu, chịu trách nhiệm đối với gần một nửa chi phí
quân sự toàn cầu, và có các nguồn lực sức mạnh mềm văn hoá và giáo dục
rộng lớn nhất. Tất cả điều này vẫn đúng, nhưng tương lai của sức mạnh Mỹ
được tranh luận một cách sôi nổi. Nhiều nhà quan sát đã lý giải cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 như là khởi đầu cho sự suy đoán
của Mỹ. Chẳng hạn, Hội đồng Tình báo quốc gia đã dự đoán rằng vào năm
2025, “Mỹ sẽ vẫn là cường quốc ưu việt, nhưng ưu thế đó của Mỹ sẽ bị
giảm đi nhiều”.
Sức
mạnh là khả năng đạt được những kết quả mà người ta mong muốn, và các
nguồn lực tạo ra nó thay đổi trong những bối cảnh khác nhau. Tây Ban Nha
trong thế kỷ 16 đã tận dụng quyền kiểm soát của mình đối với các thuộc
địa và váng nén, Hà Lan trong thế kỷ 17 đã hưởng lợi từ thương mại và
tài chính, Pháp trong thế kỷ 18 đã hưởng lợi từ dân số và quân đội to
lớn của mình, và Anh trong thế kỷ 19 đã tìm được sức mạnh từ sự ưu việt
của mình trong Cách mạng Công nghiệp và hải quân của nước này. Thế kỷ
này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng phát triển nhanh chóng trong
công nghệ thông tin và toàn cầu hoá, và để hiểu cuộc cách mạng này, cần
phải tránh một số cạm bẫy.
Thứ
nhất, người ta phải thận trọng trước những phép ẩn dụ gây hiểu lầm của
sự suy thoái hữu cơ. Các quốc gia không giống như con người, với tuổi
thọ có thể dự đoán được. La Mã vẫn thống trị trong hơn ba thế kỷ sau
thời kỳ đỉnh cao quyền lực của mình, và thậm chí khi đó nó đã không
khuất phục trước sự trỗi dậy của một nhà nước khác. Mặc dù những dự đoán
có vẻ hợp thời về việc Trung Quốc, Ấn Độ hay Braxin vượt qua Mỹ trong
những thập kỷ tới, mối đe doạ lớn hơn có thể đến từ những người man di
hiện đại và những bên tham gia không phải nhà nước. Trong một thế giới
dựa trên thông tin, sự khuếch tán sức mạnh có thể tạo ra một nguy cơ lớn
hơn sự chuyển tiếp quyền lực. Sự hiểu biết thông tin thường cho rằng
nhà nước với quân đội lớn nhất chiếm ưu thế, nhưng trong thời đại thông
tin, nhà nước (hoặc bên tham gia không phải nhà nước) với câu chuyện hay
nhất có thể đôi khi giành chiến thắng.
Ngày
nay sức mạnh được phân bổ trong một mô hình giống như một ván cờ ba
chiều phức tạp. Trên bàn cờ đầu, sức mạnh quân sự phần lớn là đơn cực,
và Mỹ có thể giữ vị trí hàng đầu trong khoảng một thời gian. Ở bàn cờ
giữa, sức mạnh kinh tế đã là đa cực trong hơn một thập kỷ, với Mỹ, châu
Âu, Nhật Bản và Trung Quốc như là những bên tham gia chủ yếu và những
nước khác đang có được tầm quan trọng. Bàn cờ bên dưới là lĩnh vực của
các mối quan hệ xuyên quốc gia. Nó bao gồm các bên tham gia không phải
nhà nước đa dạng như các chủ ngân hàng chuyển tiền bằng điện tử, những
phần tử khủng bố buôn bán vũ khí, những hacker đe doạ an ninh mạng, và
những thách thức như bệnh dịch và biến đổi khí hậu. Ở bàn cờ bên dưới
này, sức mạnh bị khuếch tán một cách rộng rãi, và không có ý nghĩa gì
khi đề cập đến đơn cực, đa cực hay bá quyền.
Trong
hoạt động chính trị liên nhà nước, nhân tố quan trọng nhất sẽ là sự trở
lại tiếp tục của châu Á trên vũ đài thế giới. Vào năm 1750, châu Á đã
chiếm hơn một nửa dân số và sản lượng kinh tế của thế giới. Cho đến năm
1900, sau cuộc Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu và Mỹ, phần đóng góp của
châu Á thu hẹp lại còn một phần năm sản lượng kinh tế toàn cầu. Đến năm
2050, châu Á sẽ trên con đường trở lại phần đóng góp lịch sử của mình.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ có thể tạo ra sự bất ổn, nhưng đây
là một vấn đề với những tiền lệ, và lịch sử cho thấy các chính sách có
thể ảnh hưởng đến kết quả như thế nào.
Sự suy giảm bá quyền?
Hiện
nay là hợp thời khi so sánh sức mạnh của Mỹ với sức mạnh của Anh cách
đây một thế kỷ và dự đoán một sự suy giảm bá quyền tương tự. Một số
người Mỹ phản ứng một cách cảm tính đối với ý tưởng về sự suy thoái,
nhưng sẽ là khác thường và không mang tính lịch sử khi tin rằng Mỹ sẽ
mãi mãi có một phần vượt trội trong các nguồn lực sức mạnh. Từ “suy
thoái” pha trộn hai khía cạnh khác nhau: suy thoái tuyệt đối, theo nghĩa
suy tàn, và suy thoái tương đối, trong đó các nguồn lực sức mạnh của
những nhà nước khác tăng lên và được sử dụng hiệu quả hơn.
Điểm
tương đồng với sự suy thoái của Anh gây hiểu nhầm. Anh đã có vị trí
hàng đầu về hải quân và một đế chế mà ở đó mặt trời không bao giờ lặn,
nhưng đến Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, đất nước đứng chỉ thứ tư trong
số các nước lớn về phần nhân viên quân sự, thứ tư về GDP, và thứ ba về
chi phí quân sự. Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, việc bảo vệ đế
chế đã trở thành một gánh nặng hơn là tài sản. Cho dù nói về một đế chế
Mỹ, Mỹ có quyền tự do hành động hơn Anh. Và trong khi Anh phải đối mặt
với những nước láng giềng trỗi dậy, Đức và Nga, thì Mỹ được lợi từ việc
được bao quanh bởi hai đại dương và những người láng giềng yếu hơn.
Bất
chấp những khác biệt như vậy, người Mỹ nghiêng về những chu kỳ tin vào
sự suy thoái của chính mình. Những thành viên đã viết ra Hiến pháp Mỹ đã
lo ngại về những so sánh với nền cộng hoà La Mã. Charles Dickens đã
nhận xét cách đây một thế kỷ rưỡi: “Đối với một người, nếu tin vào cá
nhân các công dân của nước này thì [nước Mỹ] luôn suy yếu, và luôn đình
trệ, và luôn ở trong một cuộc khủng hoảng đáng báo động, và không bao
giờ khác được”. Trong nửa cuối thế kỷ, việc tin vào sự suy thoái của Mỹ
đã nổi lên sau khi Liên Xô phóng Sputnik vào năm 1957, sau những điều
chỉnh kinh tế của Tổng thống Richard Nixon và các cú sốc dầu lửa những
năm 1970, và sau khi đóng cửa các ngành công nghiệp vùng vành đai phát
triển chậm Rust Belt (Rust Belt là tên một khu vực ở miền Bắc nước Mỹ,
bao gồm các bang Illinois, Michigan, Indiân, Ohio và Wisconsin, nơi
nhiều ngành hớn, đặc biệt là các ngành sản xuất thép và ôtô, đã từng sử
dụng nhiều nhân công nhưng ngày càng ít thành công) và những thâm hụt
ngân sách trong kỷ nguyên Reagan. Mười năm sau, người Mỹ tin rằng nước
Mỹ là một siêu cường duy nhất và hiện nay các cuộc thăm dò cho thấy rằng
nhiều người lại tin vào sự suy thoái.
Các
học giả than vãn về sự bất lực của Oasinhton trong việc kiểm soát những
nhà nước như Ápganixtan hay Iran, nhưng họ để cho hào quang của quá khứ
tô màu cho những đánh giá của mình. Sức mạnh của Mỹ không phải là cái
đã từng có, nhưng nó cũng chưa bao giờ thực sự to lớn như được cho là
vậy. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Mỹ có vũ khí hạt nhân và một ưu
thế áp đảo về sức mạnh kinh tế nhưng tuy thế không thể ngăn ngừa “việc
mất” Trung Quốc, không thể đẩy lui chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, thoát
khỏi sự bế tắc trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, ngăn chặn “việc mất”
miền Bắc Việt Nam, hay lật đổ chế độ Castro ở Cuba. Sức mạnh đo được
trong các nguồn lực hiếm khi ngang bằng với sức mạnh đo được trong những
kết quả được ưa thích hơn, và những chu kỳ tin vào sự suy thoái bộc lộ
ra là về tâm lý hơn là về những thay đổi thực sự trong các nguồn lực sức
mạnh. Đáng tiếc là, những sự tin tưởng nhầm lẫn về suy thoái – ở trong
nước và nước ngoài – có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm trong chính
sách.
Trung Quốc trỗi dậy
Trong
hơn một thập kỷ, nhiều người đã nhìn Trung Quốc như là đối thủ có khả
năng nhất để cân bằng sức mạnh Mỹ hay vượt qua nó. Một số người đã vạch
ra những sự tương đồng với thách thức mà nước Đức đế quốc đã đặt ra cho
Anh vào đầu thế kỷ trước. Một cuốn sách gần đây (của Martin Jacques) còn
được đặt tên là Khi Trung Quốc thống trị thế giới: Sự kết thúc của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự toàn cầu mới. Goldman Sachs đã dự kiến rằng tổng quy mô của nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt của Mỹ vào năm 2027.
Tuy
nhiên, Trung Quốc còn một con đường dài để tiến tới ngang bằng với các
nguồn lực sức mạnh của Mỹ và nước này vẫn còn phải đối mặt với nhiều trở
ngại đối với sự phát triển của mình. Ngay cả nếu tổng GDP của Trung
Quốc vượt qua của Mỹ vào khoảng năm 2030, hai nền kinh tế, dù đại thể
tương đương về quy mô, sẽ không tương đương về thành phần. Trung Quốc sẽ
vẫn có một khu vực nông thôn kém phát triển rộng lớn, và nước này bắt
đầu phải đối mặt với những vấn đề nhân khẩu học từ những tác động chậm
của chính sách một con của mình. Thu nhập tính theo đầu người cung cấp
một thước đo sự tinh vi của một nền kinh tế. Giả sử một tỷ lệ tăng
trưởng GDP của Trung Quốc là 6% và tỷ lệ tăng trưởng GDP của Mỹ chỉ có
2% sau năm 2030, Trung Quốc có thể sẽ không ngang bằng với Mỹ trong thu
nhập tính theo đầu người cho đến một lúc nào đó vào khoảng giữa thế kỷ.
Nói cách khác, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ấn tượng và dân số ngày càng
tăng của Trung Quốc sẽ có khả năng dẫn đến nền kinh tế Trung Quốc vượt
nền kinh tế Mỹ về tổng quy mô trong một vài thập kỷ, nhưng nó không
giống như là sự ngang bằng.
Hơn
nữa, những dự đoán thẳng băng có thể khiến hiểu nhầm, và các tỷ lệ tăng
trưởng nói chung chậm lại khi các nền kinh tế đạt tới những mức độ phát
triển cao. Hệ thống chính trị độc đoán của Trung Quốc đã thể hiện một
khả năng đầy ấn tượng khai thác sức mạnh của đất nước, nhưng liệu chính
phủ có thể duy trì khả năng đó trong dài hạn hay không là một điều bí ẩn
cả đối với người bên ngoài lẫn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Không giống như Ấn Độ, vốn được sinh ra với một hiến pháp dân chủ, Trung
Quốc vẫn chưa tìm ra con đường để giải quyết vấn đề đòi hỏi tham gia
vào chính trị (nếu không phải là dân chủ) có xu hướng đi cùng với việc
tăng thu nhập bình quân đầu người. Liệu Trung Quốc có thể phát triển một
công thức quản lý một tầng lớp trung lưu thành thị đang mở rộng, sự bất
bình đẳng khu vực, đói nghèo ở nông thôn, và sự oán giận giữa các nhóm
thiểu số sắc tộc hay không thì vẫn còn phải xem xét.
Một
số người đã lập luận rằng Trung Quốc đặt mục tiêu thách thức vị trí của
Mỹ ở Đông Á và cuối là thế giới. Ngay cả nếu đây là một sự đánh giá
chính xác về những ý định hiện nay của Trung Quốc (và thậm chí bản thân
người Trung Quốc không thể biết quan điểm của những thế hệ tương lai),
điều đáng ngờ là Trung Quốc sẽ có khả năng quân sự để khiến điều này có
thể sớm thực hiện được bất cứ lúc nào. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung
Quốc sẽ phải đấu tranh với những phản ứng của những nước khác và những
sự kiềm chế được tạo ra bởi nhu cầu của Trung Quốc đối với các thị
trường và nguồn lực bên ngoài. Một tư thế quân sự quá hung hăng của
Trung Quốc có thể tạo ra một sự liên minh bù lại giữa các nước láng
giềng của Trung Quốc sẽ làm suy yếu cả sức mạnh cứng lẫn sức mạnh mềm
của nước này.
Sự
trỗi dậy của sức mạnh Trung Quốc ở châu Á bị cạnh tranh bởi cả Ấn Độ
lẫn Nhật Bản (cũng như những nhà nước khác), và điều đó tạo ra một lợi
thế sức mạnh chủ yếu cho Mỹ. Liên minh Mỹ – Nhật và sự cải thiện trong
các mối quan hệ Mỹ-Ấn có nghĩa rằng Trung Quốc không thể dễ dàng đánh
bật người Mỹ ra khỏi châu Á. Từ quan điểm sức mạnh đó, Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ, Ôxtrâylia, và những nước khác có thể can dự với Trung Quốc và tạo ra
những sự khích lệ để nước này đóng một vai trò có trách nhiệm, trong
khi ngăn cản khả năng cư xử hung hăng khi sức mạnh của Trung Quốc tăng
lên.
Sự suy tàn ở trong nước?
Một
số người lập luận rằng Mỹ gánh chịu tổn thất bởi “sự dàn trải quá mức
kiểu đế quốc”, nhưng cho đến nay, thực tế không đúng với thuyết đó.
Ngược lại, các khoản chi tiêu cho quốc phòng và các vấn đề quốc tế đã
giảm đi như là một phần của GDP trong vài thập kỷ vừa qua. Tuy vậy, Mỹ
có thể suy thoái không phải vì sự dàn trải quá mức kiểu đế quốc mà vì
khả năng hoạt động kém ở trong nước. La Mã mục nát từ bên trong, và một
số nhà quan sát, lưu ý đến tình trạng xấu đi trong hoạt động chính trị
của Mỹ hiện nay, dự đoán rằng Mỹ sẽ mất đi khả năng của mình ảnh hưởng
đến các sự kiện của thế giới bởi các cuộc chiến trong nước về văn hoá,
sự sụp đổ của các thể chế chính trị nước này, và sự đình trệ về kinh tế.
Không thể loại bỏ khả năng này, nhưng các xu thế không rõ ràng như tâm
trạng u ám hiện nay cho thấy.
Mặc
dù Mỹ có nhiều vấn đề về xã hội – và luôn có – họ dường như không trở
nên tồi tệ đi theo bất cứ cách thức thẳng băng nào. Một số trong những
vấn đề đó thậm chí còn đang cải thiện, như tỷ lệ tội phạm, ly hôn và
mang thai ở tuổi vị thành niên. Mặc dù có các cuộc chiến văn hoá đối với
những vấn đề như kết hôn đồng giới và phá thai, các cuộc thăm dò cho
thấy một sự gia tăng tổng thể về sự dung nạp. Xã hội dân sự vững mạnh,
và tỷ lệ đi đến nhà thờ cao, 42%. Những cuộc chiến văn hoá trước đây của
đất nước này, về nhập cư, nô lệ, tiến hoá, sự ôn hoà, chủ nghĩa
McCarthy và nhân quyền, được cho là còn nghiêm trọng hơn bất cứ cuộc
chiến nào của ngày nay.
Một
mối lo ngại nghiêm trọng hơn sẽ là liệu đất nước này có chuyển sang
hướng nội và hạn chế một cách trầm trọng sự nhập cư. Với mức nhập cư
hiện nay của mình, Mỹ là một trong số ít những nước phát triển có thể
tranh được sự suy giảm về nhân khẩu học và giữ phần đóng góp của mình
trong dân số thế giới, nhưng điều này có thể thay đổi nếu sự bài ngoại
hay những phản ứng đối với khủng bố đã đóng cửa các đường biên giới của
nước này. Tỷ lệ phần trăm các cư dân sinh ra ở nước ngoài ở Mỹ đã đạt
đỉnh cao của thế kỷ 20, 14,7% vào năm 1910. Hiện nay, 11,7% cư dân Mỹ
được sinh ra ở nước ngoài, nhưng vào năm 2009, 50% người Mỹ ủng hộ giảm
nhập cư, tăng từ 39% vào năm 2008. Suy thoái kinh tế chỉ làm trầm trọng
thêm vấn đề.
Mặc
dù một số tốc độ nhập cư quá nhanh có thể tạo ra những vấn đề xã hội,
nhưng về dài hạn sự nhập cư củng cố sức mạnh của Mỹ. Ngày nay, Mỹ là
nước đông dân thứ ba trên thế giới; 50 năm kể từ bây giờ, nó có thể vẫn
là thứ ba (sau Ấn Độ và Trung Quốc). Điều này không chỉ liên quan đến
sức mạnh kinh tế, mà do gần như tất cả các nước phát triển đang già đi
và phải đối mặt với gánh nặng lo liệu cho thế hệ già hơn, sự nhập cư có
thể giúp giảm bớt tính gay gắt của vấn đề chính sách do kết quả của điều
đó. Thêm vào đó, có một sự tương quan giữa số visa H-1B và số bằng sáng
chế được đệ trình tại Mỹ. Vào năm 1998, các kỹ sư sinh ra tại Trung
Quốc và Ấn Độ điều hành một phần tư các doanh nghiệp công nghệ cao của
Thung lũng Silicon, và vào năm 2005, người ta thấy cứ bốn công ty công
nghệ khởi nghiệp của Mỹ trong thập kỷ qua thì có một công ty là do người
nhập cư đã giúp khởi đầu.
Quan
trọng không kém là những lợi ích của sự nhập cư đối với sức mạnh mềm
của Mỹ. Bị thu hút bởi sự phấn đấu của những người nhập cư Mỹ, mọi người
muốn tới Mỹ. Nước Mỹ là một cục nam châm, và nhiều người có thể hình
dung bản thân mình là người Mỹ. Nhiều người Mỹ thành công trông giống
như người ở những nước khácl. Thay vì làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm,
sự nhập cư tăng cường cả hai. Khi Lý Quang Diệu của Xinhgapo kết luận
rằng Trung Quốc sẽ không vượt qua Mỹ với tư cách cường quốc hàng đầu của
thế kỷ 21, ông trích dẫn khả năng của Mỹ thu hút những người giỏi nhất
và thông minh nhất từ phần còn lại của thế giới và dung nạp họ vào một
nền văn hoá đa dạng của sự sáng tạo. Trung Quốc có một dân số lớn hơn để
tuyển chọn từ trong nước, nhưng theo quan điểm của ông, nền văn hoá lấy
Trung Quốc làm trung tâm của nước này sẽ khiến nó ít tính sáng tạo hơn
Mỹ, vốn có thể lôi kéo toàn thế giới.
Mặt
khác, một thất bại trong thành tích của nền kinh tế Mỹ sẽ là một điểm
dừng. Hãy nhớ rằng những dự báo về kinh tế vĩ mô (giống như dự báo thời
tiết) nổi tiếng là không thể tin cậy được, dường như là Mỹ sẽ trải qua
sự tăng trưởng chậm hơn trong thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính
2008. Quỹ Tiền tệ Quốc tế hy vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt trung bình
khoảng 2% trong năm 201. Con số này thấp hơn mức trung bình trong vài
thập kỷ trước đó nhưng xấp xỉ gần với tỷ lệ trung bình trong 10 năm qua.
Trong
những năm 1980, nhiều nhà quan sát tin rằng nền kinh tế Mỹ đã xì hết
hơi và Đức và Nhật Bản đang vượt Mỹ. Đất nước này dường như đã đánh mất
lợi thế cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả sau cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kéo dài, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã xếp
Mỹ đứng thứ 4 (sau Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển và Xinhgapo) về năng lực canh
tranh kinh tế toàn cầu (so với Trung Quốc xếp thứ 27). Nền kinh tế Mỹ đi
đầu trong nhiều khu vực tăng trưởng mới, như công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học và công nghệ nano. Và ngay dù những người lạc quan có xu
hướng dẫn ra sự vượt trội của Mỹ trong sản xuất và sử dụng công nghệ
thông tin, thì đó không phải là nguồn năng suất duy nhất của Mỹ. Mỹ cũng
đã chứng kiến sự đổi mới nông nghiệp đáng kể và sự mở cửa của nước này
đối với toàn cầu hoá, nếu điều này tiếp tục, cũng sẽ kéo năng suất lên.
Các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng tăng trưởng về năng suất của Mỹ sẽ
từ 1,5% đến 2,25% trong thập kỷ tới.
Về
đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, Mỹ là nước đứng đầu thế giới vào
năm 2007, với 369 tỉ USD, theo sau là toàn bộ châu Á (338 tỉ USD) và
Liên minh châu Âu (263 tỉ USD). Mỹ đã chi 2,7 GDP của mình vào nghiên
cứu và phát triển, gần gấp đôi những gì Trung Quốc đã chi (nhưng ít hơn
một chút so với 3% mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã chi). Trong năm 2007, các
nhà sáng chế Mỹ đã đăng ký khoảng 80.000 bằng sáng chế ở Mỹ, hay nhiều
hơn phần còn lại của thế giới hợp lại. Một số báo cáo đã bày tỏ mối lo
ngại về những vấn đề như tỷ lệ thuế công ty cao, chảy máu nguồn vốn con
người, và số bằng sáng chế ở nước ngoài ngày càng tăng, nhưng các công
ty vốn mạo hiểm đầu tư 70% tiền của họ vào các công ty khởi nghiệp ở
trong nước. Một cuộc điều tra nam 2009 của tổ chức Global
Entrepreneurship Monitor (Giám sát doanh nhân toàn cầu) đã xếp Mỹ ở trên
những nước khác về các cơ hội cho doanh nhân bởi nước này có một nền
văn hoá kinh doanh thuận lợi, ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm trưởng
thành nhất, các mối quan hệ thân thiết giữa các trường đại học và ngành
công nghiệp, và một chính sách nhập cư mở.
Những
mối lo ngại khác về tương lai của nền kinh tế Mỹ tập trung vào thâm hụt
tài khoản vãng lai (mà mức hiện nay chỉ ra rằng người Mỹ đang ngày càng
mắc nợ người nước ngoài hơn) và sự gia tăng nợ chính phủ. Theo lời của
sử gia Niall Ferguson, “Đây là cách các đế quốc suy thoái. Nó bắt đầu
bằng một sự bùng nổ nợ”. Không chỉ cứu trợ tài chính ngân hàng gần đây
và gói kích thích kinh tế kiểu Keynes làm tăng thêm nợ của Mỹ, mà phí
tổn ngày càng tăng của các chương trình chăm sóc y tế và đảm bảo phúc
lợi cho tất cả những người được thụ hưởng như An sinh xã hội, cùng với
phí tổn ngày càng tăng của việc trả lãi cho các khoản nợ, sẽ đòi hỏi
những phần đóng góp lớn của thu nhập tương lai. Các nhà quan sát khác ít
gây hoang mang hơn. Họ tuyên bố Mỹ không giống như Hy Lạp.
Văn
phòng Ngân sách Quốc hội tính toán rằng tổng nợ chính phủ sẽ lên tới
100% GDP vào năm 2023, và nhiều nhà kinh tế bắt đầu lo ngại khi các mức
nợ ở những nước giàu đã vượt quá 90%. Nhưng như tạp chí The Economist
đã chỉ ra hồi cuối tháng 6, “Mỹ có hai lợi thế khổng lồ so với những
nước khác cho phép nước này đối mặt với những khoản nợ của mình với thái
độ tương đối bình thản: có cả đồng tiền dự trữ của thế giới lẫn thị
trường tài sản có tính thanh khoản cao nhất của mình, trong trái phiếu
kho bạc”. Và trái ngược với những ngại về một sự sụp đổ lòng tin vào
đồng đôla, trong cuộc khủng hoảng tài chính, đồng đôla đã tăng lên và
lợi tức trái phiếu giảm xuống. Một cuộc khủng hoảng lòng tin đột ngột ít
là vấn đề hơn một sự gia tăng dần dần trong chi phí trả lãi cho các
khoản nợ có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ dài hạn của nền kinh tế.
Chính
trong nghĩa này mà vấn đề nợ là quan trọng, và những nghiên cứu cho
thấy rằng lãi suất tăng 0,03% cho mỗi một phần trăm tăng lên trong tỉ
suất nợ trên GDP trong dài hạn. Lãi suất cao hơn có nghĩa là đầu tư vào
khu vực tư nhân thấp hơn và tăng trưởng chậm hơn. Những tác động này có
thể được giảm nhẹ bằng những chính sách tốt hoặc bị làm trầm trọng thêm
bởi những chính sách tồi. Nợ tăng lên không nhất thiết dẫn tới sự suy
thoái của Mỹ, nhưng nó chắc chắn làm tăng rủi ro dài hạn.
Một
lực lượng lao động được đào tạo tốt là một chìa khoá khác cho thành
công về kinh tế trong thời đại thông tin. Thoạt nhìn, Mỹ làm tốt về mặt
này. Nước này đã chi cho giáo dục đại học gấp đôi tính theo tỉ lệ phần
trăm GDP so với Pháp, Đức, Nhật Bản và Anh. Danh sách top 10 trường đại
học năm 2009 của Times Higher Education
có trụ sở tại Luân Đôn bao gồm 6 trường ở Mỹ, và một nghiên cứu năm
2010 của Đại học Giao thông Thượng Hải xếp 17 trường của Mỹ – và không
có trường nào của Trung Quốc – trong top 20 của mình. Người Mỹ giành
giải Nôben và công bố các tài liệu khoa học trên những tạp chí được các
nhà chuyên môn kiểm duyệt – gâp ba lần người Trung Quốc – nhiều hơn công
dân của bất cứ nước nào khác. Những thành tựu này tăng cường cả sức
mạnh kinh tế lẫn sức mạnh mềm của đất nước này.
Nền
giáo dục Mỹ trong điều kiện tốt nhất của mình – nhiều trường đại học và
bộ phận trên trong hệ thống giáo dục trung học – đáp ứng hoặc đưa ra
các tiêu chuẩn toàn cầu. Nhưng nền giáo dục Mỹ trong điều kiện tồi tệ
nhất của mình – quá nhiều trường tiểu học và trung học, đặc biệt tại
những khu vực ít giàu có – tụt hậu nặng nề. Điều này có nghĩa là chất
lượng của lực lượng lao động sẽ không theo kịp các tiêu chuẩn đang tăng
lên cần thiết trong một nền kinh tế do thông tin thúc đẩy. Không có bằng
chứng thuyết phục rằng các sinh viên đang thể hiện tồi hơn trong quá
khứ, nhưng lợi thế về giáo dục của Mỹ đang xói mòn bởi vì các nước khác
đang làm tốt hơn bao giờ hết. Sự cải thiện trong hệ thống giáo dục K-12
của đất nước sẽ là cần thiết nếu nước này muốn đáp ứng các tiêu chuẩn
cần thiết trong một nền kinh tế dựa trên thông tin.
Hoạt động chính trị và các thể chế
Bất
chấp những vấn đề và sự không chắc chắn này, dường như khả năng là với
các chính sách đúng đắn, nền kinh tế Mỹ có thể tiếp tục tạo ra sức mạnh
cứng cho đất nước. Nhưng còn về các thể chế của Mỹ thì sao? Nhà báo
James Fallows, người đã sống nhiều năm ở Trung Quốc, trở về nước lo lắng
về thành tích kinh tế của Mỹ thì ít hơn so với những tắc nghẽn trong hệ
thống chính trị của nước này. Theo quan điểm của ông, “Mỹ vẫn có các
phương tiện để đối phó với gần như bất kỳ sự yếu kém về cơ cấu nào của
nó… Đó là bi kịch của Mỹ đầu thế kỷ 21: một nền văn hoá có ý nghĩa sống
còn và tự đổi mới thu hút nhân tài của thế giới và một hệ thống quản lý
ngày càng giống như một trò đùa”. Mặc dù bế tắc chính trị trong một giai
đoạn suy thoái có vẻ tồi tệ, nhưng khó xác định liệu tình trạng hiện
nay có tồi tệ hơn nhiều so với quá khứ hay không.
Sự
chuyển đổi sức mạnh – chuyển các nguồn lực sức mạnh thành kết quả mong
muốn – là một vấn đề lâu dài đối với Mỹ. Hiến pháp Mỹ dựa trên quan điểm
tự do của thế kỷ 18 rằng sức mạnh được kiểm soát tốt nhất bởi sự phân
mảng và hệ thống “checks and balances” (kiểm tra và cân bằng) bù lại
(“checks and balances” là một hệ thống chính trị trong một nước dân chủ,
gồm 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó mỗi ngành có nhiệm
vụ kiểm soát quyền lực của hai ngành kia để tạo ra sự cân bằng quyền
lực). Trong chính sách đối ngoại, Hiến pháp luôn luôn khuyến khích Tổng
thống và Quốc hội cạnh tranh để giành quyền kiểm soát. Các nhóm gây sức
ép về kinh tế và sắc tộc mạnh mẽ đấu tranh đòi những sự định nghĩa có
tính tư lợi của họ về lợi ích quốc gia, và Quốc hội được định ra để tập
trung vào những vấn đề trục trặc.
Một
nguyên nhân khác của mối lo ngại là sự suy giảm lòng tin của công chúng
vào cac thể chế chính phủ. Trong năm 2010, một cuộc thăm dò của Trung
tâm nghiên cứu Pew thấy rằng 61% số người được hỏi nghĩ rằng Mỹ đã suy
thoái, và chỉ 19% tin rằng chính phủ làm điều gì là đúng đắn trong phần
lớn thời gian. Ngược lại, vào năm 1964, ba phần tư công chúng Mỹ nói
rằng họ tin chính phủ liên bang làm những việc đúng đắn trong hầu hết
thời gian. Các con số đã thay đổi phần nào qua thời gian, tăng sau sự
kiện ngày 11/9 trước khi giảm dần trở lại.
Mỹ
được hình thành một phần dựa vào một mối ngờ vực về chính phủ, và hiến
pháp của nước này được thiết kế để chống lại quyền lực tập trung. Hơn
nữa, khi được hỏi không phải về chính phủ thường ngày, mà về khuôn khổ
hiến pháp cơ bản, người Mỹ rất tích cực. Nếu được hỏi nơi tốt nhất để
sống là ở đâu, đại đa số trong số họ nói là Mỹ. Nếu được hỏi liệu họ có
thích hệ thống chính phủ dân chủ của mình hay không, gần như tất cả mọi
người nói có. Ít người cảm thấy hệ thống này mục nát và phải bị lật đổ.
Một
số khía cạnh của tâm trạng hiện tại có thể thể hiện sự bất mãn với
những cuộc cãi vã và bế tắc trong tiến trình chính trị. So với thời gian
gần đây, hoạt động chính trị đảng phái đã trở nên phân cực hơn, nhưng
hoạt động chính trị tồi tệ không có gì mới – như John Adams, Alexander
Hamilton, và Thomas Jefferson có thể chứng thực. Một phần của vấn đề với
việc đánh giá bầu không khí hiện nay là việc niềm tin vào chính phủ đã
trở nên cao khác thường trong thế hệ đã sống sót qua cuộc Suy thoái và
chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ Hai. Trong tầm nhìn dài về lịch sử
nước Mỹ, thế hệ đó có thể là bất thường. Nhiều bằng chứng về một sự mất
lòng tin vào chính phủ xuất phát từ dữ liệu thăm dò hiện đại, và những
phản ứng rất nhạy cảm với cách các câu hỏi được nêu ra. Sự suy thoái
mạnh nhất đã xảy ra hơn bốn thập kỷ trước, dưới thời Chính quyền Johnson
và Nixon.
Điều
này không có nghĩa là không có vấn đề với niềm tin đang suy giảm vào
chính phủ. Nếu công chúng trở nên không sẵn lòng nộp thuế hoặc tuân theo
pháp luật, hoặc nếu người trẻ tuổi sáng dạ từ chối tham gia khu vực
dịch vụ công, năng lực của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng, và người ta sẽ trở
nên bất mãn hơn với chính phủ. Hơn nữa, một không khí nghi ngờ có thể
gây ra những hành động cực đoan của các thành viên lầm đường lạc lối
trong dân số, chẳng hạn như vụ đánh bom năm 1995 một toà nhà văn phòng
liên bang ở Oklahoma City. Những kết quả như vậy có thể làm giảm bớt sức
mạnh cứng và mềm của Mỹ.
Tuy
nhiên, cho đến nay, những nỗi lo sợ này dường như chưa thành hiện thực.
Cơ quan thuế vụ đã không thấy sự gia tăng trong gian lận thuế. Theo
nhiều thông tin thu thập đựơc, các quan chức chính phủ đã trở nên ít
tham nhũng hơn trong những thập kỷ trước đó, và Ngân hàng Thế giới cho
Mỹ một điểm số cao (đạt phân vị 90 trên một trăm) về “kiểm soát tham
nhũng”. Việc tự nguyện nộp lại bản khai điều tra tăng lên 67% vào năm
200 và cao hơn một chút vào năm 2010, đảo ngược sự suy giảm 30 năm. Các
tỷ lệ bỏ phiếu đã rơi từ 62% xuống 50% trong bốn thập niên sau năm 1960,
nhưng sự suy giảm đã dừng lại vào năm 2000 và quay trở lại 58% vào năm
2008. Nói cách khác, hành vi của công chúng không thay đổi đột ngột như
phản ứng của họ đối với những câu hỏi thăm dò ý kiến cho thấy.
Những
thay đổi trong vốn xã hội nghiêm trọng như thế nào khi nói đến hiệu quả
của các thể chế của Mỹ? Nhà khoa học chính trị Robert Putnam lưu ý rằng
trái phiếu cộng đồng đã không suy yếu dần dần trong thế kỷ qua. Ngược
lại, lịch sử Mỹ, được xem xét một cách cẩn thận, là một câu chuyện về
những thăng trầm trong sự can sự dân sự. Theo Pew Partnership for Civic
Change, ba phần tư người Mỹ cảm thấy có liên kết với cộng đồng của họ và
nói rằng chất lượng cuộc sống ở đó tuyệt vời hoặc tốt. Một cuộc thăm dò
khác trong các cuộc thăm dò của nhóm này thấy rằng 111 triệu người Mỹ
đã tình nguyện dành thời gian của họ để giúp giải quyết những vấn đề
trong các cộng đồng của họ trong 12 tháng qua và rằng 60 triệu người
tình nguyện trên cơ sở thường xuyên. Bốn mươi phần trăm nói rằng làm
việc cùng với những người khác trong cộng đồng của họ là điều quan trọng
nhất mà họ có thể làm.
Trong
những năm gần đây, hoạt động chính trị và các thể chế chính trị của Mỹ
đã trở nên phân cực hơn so với sự phân loại thực tế của công luận cho
thấy. Tình hình trầm trọng thêm bởi sự suy thoái kinh tế gần đây. Như The Economist
lưu ý, “hệ thống chính trị của Mỹ được thiết kế để làm cho việc lập
pháp ở cấp liên bang khó khăn, chứ không phải dễ dàng… Như vậy hệ thống
cơ bản phát huy tác dụng; nhưng điều đó khong có lý do gì để bào chữa
cho việc bỏ qua các khu vực mà có thể được cải cách”. Một số cải cách
quan trọng, chẳng hạn như thay đổi những ghế an toàn được sắp xếp gian
lận trong Hạ viện hoặc sửa đổi các quy định của Thượng viện đối với
những người cản trở việc thông qua một dự luật – sẽ không yêu cầu bất kỳ
sự sửa đổi về hiến pháp nào. Vẫn còn phải xem liệu hệ thống chính trị
Mỹ có thể cải cách chính nó và đối phó với các vấn đề được miêu tả ở
trên hay không, nhưng nó không tan vỡ như ngụ ý của các nhà phê bình vẽ
ra những tương đồng đối với tình trạng suy tàn trong nước của La Mã hoặc
các đế chế khác.
Sự suy thoái gây tranh luận
Bất
kỳ đánh giá thực nào về quyền lực Mỹ trong những thập kỷ tới sẽ vẫn
không chắc chắn, nhưng sự phân tích không được giúp đỡ bởi những phép ẩn
dụ sai lệch về sự suy thoái. Những nhà phát triển lý thuyết suy thoái
nên được cảnh tỉnh bằng việc ghi nhớ cách đánh giá cực kỳ phóng đại của
Mỹ về sức mạnh của Liên Xô những năm 1970 và về sức mạnh của Nhật Bản
những năm 1980 như thế nào. Sai lầm không kém là những người tiên đoán
về sự đơn cực đó vốn lập luận một thập kỷ trước rằng Mỹ đã mạnh mẽ đến
mức nước này có thể làm như mình muốn và những nước khác không có lựa
chọn nào khác ngoài làm theo. Ngày nay, một số người tự tin dự đoán rằng
thế kỷ 21 sẽ chứng kiến Trung Quốc thay thế Mỹ với tư cách nhà nước
lãnh đạo thế giới, trong khi những người khác lập luận với sự tự tin
không kém rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Mỹ. Nhưng những sự kiện không
lường trước được thường làm hỏng những dự đoán như vậy. Luôn có một loạt
những tương lai có thể xảy ra, không phải một.
Về
sức mạnh của Mỹ có liên quan đến sức mạnh của Trung Quốc, nhiều điều sẽ
phụ thuộc vào những bấp bênh của sự thay đổi chính trị trong tương lai
tại Trung Quốc. Trừ phi có bất kỳ cuộc chính biến nào, quy mô và tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế cao của Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ làm tăng sức
mạnh tương đối của nước này so với Mỹ. Điều này sẽ đưa Trung Quốc lại
gần Mỹ hơn về các nguồn lực sức mạnh, nhưng không nhất thiết có nghĩa
rằng Trung Quốc không phải chịu những bước thụt lùi về chính trị lớn ở
trong nước. Những dự đoán dựa trên chỉ riêng tăng trưởng GDP là một
chiều. Chúng bỏ qua những lợi thế của Mỹ trong sức mạnh quân sự và sức
mạnh mềm, cũng như những bất lợi địa chính trị của Trung Quốc trong cán
cân quyền lực của châu Á.
Trong
loạt những tương lai có thể xảy ra, nhiều khả năng hơn là những tương
lai trong đó Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt với Mỹ nhưng không vượt
qua nước này về sức mạnh tổng thể trong nửa đầu thế kỷ này. Nhìn lại
lịch sử, chiến lược gia người Anh Lawrence Freedman đã lưu ý rằng Mỹ có
“hai đặc điểm phân biệt nước này với các cường quốc thống trị trong quá
khứ: sức mạnh của Mỹ dựa trên các liên minh chứ không phải các thuộc địa
và được kết hợp với một ý thức hệ linh hoạt… Cùng nhau chúng tạo ra một
nòng cốt của những mối quan hệ và những giá trị mà Mỹ có thể quay trở
lại ngay cả sau khi nước này đã tự mình mở rộng quá mức”. Và nhìn về
tương lai, học giả Anne – Marie Slaughter đã lập luận rằng văn hoá cởi
mở và đổi mới của Mỹ sẽ giữ cho nó ở trung tâm trong một thế giới nơi
các mạng lưới bổ sung, nếu không nói là hoàn toàn thay thế, sức mạnh
theo thứ bậc.
Mỹ
cũng được ở vào vị trí thuận lợi để hưởng lợi từ những mạng lưới và
liên minh như vậy, nếu nước này theo các chiến lược khôn ngoan. Do những
lo ngại của Nhật Bản về sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc, Nhật Bản
có khả năng hơn tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để bảo vệ sự độc lập của mình
thay vì liên minh với Trung Quốc. Điều này làm tăng vị thế của Mỹ. Trừ
phi người Mỹ hành động một cách thiếu khôn ngoan đối với Nhật Bản, một
Đông Á đồng minh không phải là một ứng cử viên đáng tin cậy để thay thế
theo đầu người và các nền kinh tế tân tiến tương tự như của Mỹ – đó là
Liên minh châu Âu và Nhật Bản – thì đều là đồng minh của Mỹ. Trong biểu
hiện mang tính hiện thực truyền thống dưới dạng những cán cân nguồn lực
sức mạnh, điều đó tạo ra một sự khác biệt lớn đối với vị trí thực của
sức mạnh Mỹ. Và trong một quan điểm về sức mạnh kiểu mọi thành phần tham
gia đều có cơ hội thắng hơn – rằng nắm quyền lực cùng với, thay vì đối
với, các nước khác – châu Âu và Nhật Bản cung cấp các nhóm nguồn lực lớn
nhất để đối phó với các vấn đề xuyên quốc gia chung. Mặc dù lợi ích của
họ không đồng nhất với những lợi ích của Mỹ, họ chia sẻ các mạng lưới
xã hội và chính phủ gối lên nhau với Mỹ, điều đem lại các cơ hội hợp
tác.
Về
vấn đề sự suy thoái tuyệt đối, thay vì tương đối, của Mỹ, nước Mỹ phải
đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng trong các lĩnh vực như nợ, giáo
dục trung học, và bế tắc chính trị. Nhưng chúng chỉ là một phần của bức
tranh. Nằm trong nhiều tương lai có thể xảy ra, những trường hợp rõ ràng
hơn có thể được tao ra cho những tương lai tích cực hơn là những tương
lai tiêu cực. Nhưng trong những tương lai tiêu cực, tương lai hợp lý
nhất là một tương lai trong đó Mỹ phản ứng quá mức với các cuộc tấn công
khủng bố bằng cách chuyển sang hướng nội và do đó tự cắt đứt mình khỏi
sức mạnh mà nước này có được từ sự mở cửa. Tuy nhiên, trừ phi có những
chiến lược sai lầm như vậy, có những giải pháp cho các vấn đề chính của
Mỹ ngày nay. (Chẳng hạn, nợ dài hạn có thể được giải quyết bằng cách sau
khi nền kinh tế hồi phục đưa ra những sự cắt giảm chi tiêu và thuế tiêu
thụ có thể trả tiền phúc lợi.) Tất nhiên, những giải pháp như vậy có
thể mãi mãi vẫn còn nằm ngoài tầm với. Nhưng điều quan trọng là phân
biệt những tình huống tuyệt vọng mà trong đó không có giải pháp nào với
những tình huống mà trên nguyên tắc có thể được giải quyết. Rốt cuộc,
những cải cách lưỡng đảng của thời đại Tiến bộ cách đây một thế kỷ đã
phục hồi một đất nước bị rối loạn nặng nề.
Một câu chuyện mới
Đã
đến lúc có một câu chuyện mới về tương lai của sức mạnh Mỹ. Mô tả sự
chuyển giao quyền lực trong thế kỷ 21 như một trường hợp suy giảm bá
quyền truyền thống là không chính xác, và nó có thể dẫn đến những tác
động về chính sách nguy hiểm nếu nó khuyến khích Trung Quốc can dự vào
các chính sách mạo hiểm hay Mỹ phản ứng thái quá vì sợ hãi. Mỹ không
phải trong tình trạng suy thoái tuyệt đối, và về mặt tương đối, có một
khả năng hợp lý rằng nước này sẽ vẫn hùng mạnh hơn bất kỳ nhà nước đơn
lẻ nào trong những thập kỷ tới.
Đồng
thời, đất nước này chắc chắn sẽ phải đối mặt với sự trỗi dậy trong các
nguồn lực sức mạnh của nhiều nước khác – cả các bên tham gia nhà nước
lẫn không phải nhà nước. Bởi sự toàn cầu hoá sẽ làm lan truyền những khả
năng công nghệ và công nghệ thông tin sẽ cho phép thêm nhiều người giao
thiệp hơn, văn hoá Mỹ và nền kinh tế Mỹ sẽ trở nên ít mang tính chi
phối trên toàn cầu hơn so với lúc bắt đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên,
không có khả năng là Mỹ sẽ suy tàn giống như La Mã cổ đại, hoặc thậm chí
là nước này sẽ bị một nhà nước khác vượt qua, trong đó có Trung Quốc.
Như
vậy, vấn đề về sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ 21 không phải là vấn đề suy
giảm mà là phải làm gì dưới ánh sáng của nhận thức rằng ngay cả đất
nước lớn nhất cũng không thể đạt được những kết quả mình mong muốn nếu
không có sự giúp đỡ của những nước khác. Một số lượng ngày càng tăng
những thách thức sẽ đòi hỏi Mỹ thể hiện sức mạnh cùng với những nước
khác cũng nhiều như sức mạnh đối với những nước khác. Điều này đến lượt
nó sẽ đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sức mạnh, nó đang thay đổi
như thế nào, và làm thế nào để xây dựng những chiến lược “sức mạnh
thông minh” kết hợp những nguồn lực sức mạnh cứng và mềm trong một thời
đại thông tin. Khả năng của đất nước này duy trì các liên minh và tạo ra
những mạng lưới sẽ là một khía cạnh quan trọng trong sức mạnh cứng và
mềm của nó.
Sức
mạnh bản chất là không tốt hay xấu. Nó giống như calo trong chế độ ăn
uống: nhiều hơn không phải luôn tốt hơn. Nếu một đất nước có quá ít
nguồn lực sức mạnh, nước này ít có khả năng đạt được những kết quả ưa
thích của mình. Nhưng quá nhiều sức mạnh (về nguồn lực) thường tỏ ra là
một tai ương khi nó dẫn đến sự tự tin quá mức và những chiến lược không
thích hợp. David giết được Goliath vì nguồn lực sức mạnh ưu việt của
Goliath khiến hắn theo đuổi một chiến lược yếu kém hơn, chiến lược mà
đến lượt nó dẫn đến thất bại và cái chết của hắn. Một câu chuyện về sức
mạnh thông minh cho thế kỷ 21 không phải về việc tối đa hoá sức mạnh
hoặc duy trì bá quyền. Đó là về việc tìm ra cách để kết hợp các nguồn
lực trong những chiến lược thành công trong bối cảnh mới của sự khuếch
tán quyền lực và “sự trỗi dậy của phần còn lại”.
Là
quốc gia lớn nhất, Mỹ sẽ vẫn quan trọng trong các vấn đề toàn cầu,
nhưng câu chuyện của thế kỷ 20 về một thế kỷ Mỹ và sự ưu việt Mỹ – cũng
như những câu chuyện về sự suy thoái của Mỹ – gây hiểu lầm khi nó được
sử dụng như một sự chỉ dẫn cho kiểu chiến lược sẽ cần thiết trong thể kỷ
21. Những thập kỷ tới không có khả năng chứng kiến một thế giới hậu Mỹ,
nhưng Mỹ sẽ cần một chiến lược thông minh kết hợp các nguồn lực sức
mạnh cứng và mềm – và chú trọng đến những liên minh và những mạng lưới
đáp ứng được với bối cảnh mới của một thời đại thông tin toàn cầu./.
Đã đăng trên basam.info
0 nhận xét:
Đăng nhận xét