Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013
Michael A. Lindenberger - Chứng lý chống WikiLeaks của Hoa Kỳ rất yếu
10:43
Hoàng Phong Nhã
No comments
Hiếu Tân dịch
Bây
giờ đây [9/12/2010] người sáng lập WikiLeaks, Julian Assange đã bị vây
bắt ở Anh theo một lệnh bắt từ Thụy Điển, nơi người ta muốn thẩm vấn ông
về hai vụ tấn công tình dục, chính phủ Mỹ lấy gì để khởi tố ông vì đã
công bố - và phát tán trên các báo chí khắp thế giới - hàng nghìn bức
mật điện[1][1] của Bộ Ngoại giao? Và nếu bị xử thì nó có ý nghĩa gì đối với tự do ngôn luận và tự do báo chí ở Hoa Kỳ?
Những
câu hỏi trên đây bay lơ lửng trên đầu Washington trong tuần này sau khi
nhiều thành viên Quốc hội và Chính quyền Obama gợi ý rằng Assange thật
sự phải đối mặt với khởi tố hình sự vì đưa lên và phát tán trên truyền
thông hàng nghìn bức mật điện ngoại giao chứa những lời đánh giá bộc
trực - và thường cực kỳ gây bối rối - từ các nhà ngoại giao Mỹ. Lãnh đạo
nhóm thiểu số ở Thượng viện Mitch McConnell còn đi xa đến mức chụp cho
Assange cái mũ kẻ khủng bố công nghệ cao. “Hắn đã gây ra những thiệt hại
to lớn cho đất nước chúng ta và tôi nghĩ hắn cần phải bị truy tố đến
hết phạm vi của luật pháp. Và nếu có vấn đề về luật, thì chúng ta phải
thay đổi luật.” McConnell nói hôm chủ nhật trên Meet the Press của hãng NBC.
Tổng Chưởng lý Eric Holder hôm thứ Hai thề sẽ xem xét mọi đạo luật có
thể có để đưa ra cáo buộc chống Assange, kể cả những đạo luật trước nay
chưa hề được dùng để truy tố một nhà xuất bản. Và trong Thượng viện, một
số thành viên đã chuẩn bị sẵn một dự luật có thể hạ thấp ngưỡng luật
pháp hiện hành về khi nào việc tiết lộ bí mật quốc gia có thể bị coi là
một tội.
Nhưng những cố gắng theo cả hai hướng chắc chắn sẽ vấp phải cùng một trở ngại: Tu chính án số Một[2][2].
Nhờ có gần một thế kỷ những vụ liên quan đến sự va chạm giữa an ninh
quốc gia và tự do báo chí, Hiến pháp dành sự bảo vệ to lớn cho những
người công bố các bí mật của nhà nước. Những người tiết lộ bí mật nhà
nước từ gốc - chẳng hạn các quan chức chính phủ, thậm chí binh lính - có
thể bị truy tố, như binh nhì Bradley Manning, bây giờ đang ngồi trong
nhà tù quân đội sau khi bị buộc tội tải (download) phi pháp những file
bí mật với nghi ngờ rằng anh đã cung cấp chúng cho WikiLeaks.
Mặt
khác, bắt một người như Assange vào tù vì đã công bố những tài liệu ông
ta không tự mình lấy cắp, thì chính là loại việc mà Tu chính án số Một
ngăn cản. “Từ tất cả những điều chúng ta thấy, [Manning] chỉ đáp ứng với
khái niệm rằng Assange có thể công bố những bức điện đó,” cựu thanh tra
CIA, tướng Frederich P. Hitz nói với TIME. “Không có gì chứng tỏ rằng
Assange đã đóng một vai trò tích cực trong việc có được những thông tin
đó.” Ông thừa nhận rằng sự rò rỉ đó đã gây ra thiệt hại vô cùng lớn,
nhưng nói thêm “Tôi không thấy có gì dễ dàng ” trong việc theo đuổi
những lời buộc tội.
Holder
nói rằng chính phủ sẽ thăm dò xem liệu có thể buộc tội Assange dưới
dạng ăn cắp vì những hồ sơ đã bị mất cắp, mặc dầu một tiến trình như thế
là đầy trở ngại, bởi vì các file là những bản số hóa các hồ sơ của
chính phủ. Holder còn nói chính phủ sẽ xem xét liệu Asssange có thể phạm
tội âm mưu với Manning hay là vượt quá vai trò truyền thống của nhà
xuất bản bằng cách hoạt động như một kiểu người môi giới trong việc phát
tán các file này cho báo chí trên khắp thế giới không. Điều làm cho
luật sư nổi tiếng về Tu chính án số Một Floyd Abrams lo ngại là nếu
chính phủ vươn tay rà soát toàn bộ Hiến pháp để kết tội Assange thì kết
cục có thể làm hại tự do báo chí mà mọi nhà xuất bản được hưởng. Abrams
nói với TIME: không ai nên hoan nghênh Assange, nhưng cố gắng sửa chữa
những tác hại ông ta gây ra có thể khiến đất nước tệ hơn trước. “WikiLeaks có thể chỉ là cái giá mà chúng ta phải trả cho tự do báo chí ở đất nước này,” Abrams nói.
Giáo
sư về ngoại giao ở Đại học Harvard R. Nicholas Burns, một cựu đại sứ
tại NATO và Hy lạp nói những thiệt hại từ những bức mật điện là hết sức
lớn. “Tôi nghĩ sự rò rỉ những bức mật điện này là một sự bôi bác,” Burns
nói với TIME. “Ông ta đã gây ra những tác hại nặng nề cho ngành ngoại
giao chúng tôi, bởi vì ông ta đánh vào tim của công tác ngoại giao là
xây dựng lòng tin giữa các nước và giữa các chính phủ. Những tiết lộ đã
xúc phạm lòng tin đó và sắp làm cho một số người, không phải tất cả mọi
người hay tất cả mọi chính phủ, mà một số người, miễn cưỡng hơn nhiều
khi thảo luận những công việc của họ với các nhà ngoại giao Hoa Kỳ.”
Nhưng nếu việc WikiLeaks công bố những bức mật điện là sai, vậy những tờ báo cũng công bố các tài liệu mật thì sao? Dù sao, WikiLeaks cung cấp các tài liệu cho the New York Times
và một số báo khác trên khắp thế giới đã dùng cả tuần qua để đăng hết
chuyện này đến chuyện khác liên quan đến việc họ đã tìm ra - và trong
một số trường hợp, chính họ đã đăng những bức mật điện. Thượng
nghị sĩ Joseph Lieberman bang Connecticut, chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc
nội và các Công việc của Chính phủ nói với tờ Fox News hôm thứ Ba rằng
cả tờ Times nữa cũng bị nghi ngờ. “Đây
là chuyện hết sức nhạy cảm… Tôi tin chắc rằng WikiLeaks đã vi phạm Đạo
luật về Gián điệp. Nhưng như vậy thì những tổ chức thông tấn nhận và phổ
biến nó thì sao? Tôi biết họ nói họ đã xóa một số và tôi không ở đây để
đưa ra phán quyết cuối cùng về chuyện này, nhưng theo tôi The New York
Times đã phạm vào ít nhất một hành động của tư cách công dân tồi. “ ông nói. “Liệu họ có phạm tội hay không, tôi nghĩ rằng chuyện này cần đến một cuộc thẩm vấn thật mạnh mẽ của Bộ Tư pháp”
Nhưng
luật pháp là một cây cọ quá thô để vẽ ra sự khác nhau giữa việc
WikiLeaks post bừa bãi những bức mật điện lên mạng - cái mà Burns gọi là
“hư vô chủ nghĩa” - và những thứ được biên tập chặt chẽ hơn, như The
New York Times đã chứng
minh, Abrams nói. Làm sao anh có thể soạn ra một bộ luật nhằm đánh
WikiLeaks nhưng vẫn để cho hệ thống tự do báo chí của chúng ta nguyên
vẹn? Điều ấy chưa bao giờ là tiêu chuẩn pháp lý của chúng ta.” Hơn nữa,
điều khẳng định rằng Assange chỉ đơn giản tung ra những tài liệu mà
không đọc qua chúng, như một biên tập viên truyền thống phải làm, đã bị
nghi ngờ. Bản thân Assange nói với TIME rằng mỗi bức điện ngoại giao mà
site của ông công bố đều đã được biên tập kỹ lưỡng bởi đội ngũ của ông
hoặc bởi biên tập viên của các báo mà ông chia sẻ tài liệu.
Lieberman
muốn Thượng viện dự thảo bộ luật hạ thấp ngưỡng để truy tố tội gián
điệp trong tương lai. Sẽ là lần đầu tiên Quốc hội làm thử điều này. Cách
đây một thập niên, Quốc hội đã thông qua một dự luật như thế, chỉ để
tổng thống Clinton phủ
quyết nó mấy tuần trước khi ông rời nhiệm sở. Dự luật ấy sẽ đặt nước Mỹ
trên cơ sở tương tự với cơ sở mà nhiều nước khác , trong đó có một số
nước dân chủ. Ở Vương quốc Anh, New Zealand, Ireland
và nhiều nước khác việc công bố những thông tin [được phân loại là] mật
là một tội, đơn giản vì tài liệu là mật. Nhưng ở nước này thì không
thế. “Không có Đạo luật về Bí mật Chính thức,” Abrams chỉ ra.
Lý
lẽ thật sự duy nhất để Mỹ phải bảo vệ các bí mật nhà nước mà hầu hết
mọi người theo dõi pháp luật đều đồng ý, là Đạo luật về Gián điệp năm
1917 ký bởi Tổng thống Woodrow Wilson trong nỗi lo sợ tình trạng bất an
và khả năng có phá hoại ngầm trong nước khi Mỹ tham gia vào Chiến tranh
Thế giới Thứ nhất. Đó là một đạo luật được diễn đạt bằng những lời lẽ
chung chung, vẫn còn trong các sách, rằng ngoài mặt nó coi ăn cắp hoặc
chia sẻ bí mật lấy từ chính phủ là một tội liên bang, - nếu một hội đồng
xử án nhất trí rằng làm thế có hại cho nước Mỹ hoặc giúp đỡ cho một
chính quyền ngoại quốc. Nhưng Abrams nói các tòa án sớm nhận ra rằng một
tuyên bố với lời lẽ chung chung như thế có thể “coi là bất hợp pháp
nhiều thứ mà các báo Mỹ công bố hàng ngày. Nó quá chung chung đại khái
và bao hàm quá nhiều tài liệu.”
Kết
quả là, Tòa án Tối cao dùng gần hết thế kỷ 20 để dần dần thu hẹp phạm
vi của Đạo luật Gián điệp khi nó tiếp cận đến việc các phương tiện
truyền thông công bố những bí mật.
Một
trong những trường hợp nổi tiếng nhất từ những năm ấy có sự tương đương
gần như kỳ quái với cơn giận dữ điên cuồng hiện nay. Năm 1971, chính
quyền Nixon cố ngăn chặn The New York Times và Washington Post khỏi đăng những bài tường thuật dựa trên một đoạn lịch sử [được phân loại là] tối mật về cuộc chiến tranh Việt Nam
đang tiếp diễn. Tòa án Tối cao đã ngăn chặn chính phủ trong quyết định
6-3 của tòa theo hướng có lợi cho báo chí. Cái gọi là ý kiến theo các
Văn thư của Lầu Năm góc không được ký, và mỗi vị quan tòa viết ra một ý
kiến riêng. Trong một sự trùng hợp được nhiều người nhắc đến, Quan tòa
Potter Stewart viết ông nhất trí rằng việc công bố những bí mật trong
khi cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở Việt Nam là có hại cho nước
Mỹ. Nhưng như thế không đủ, ông kết luận. “Chúng tôi được yêu cầu, hoàn
toàn đơn giản, ngăn ngừa việc công bố bởi hai tờ báo những tài liệu mà
ngành Hành pháp khăng khăng cho là, vì lợi ích của đất nước, không nên
cho công bố. Tôi tin rằng ngành Hành pháp đúng về một số trong những tài
liệu liên quan. Nhưng tôi không thể nói rằng việc tiết lộ bất kỳ tài
liệu nào trong số đó cũng sẽ chắc chắn dẫn đến tác hại trực tiếp, tức
khắc, và không thể sửa chữa được, cho Nước ta hay Nhân dân ta.”
Kết
luận của Stewart, rằng việc giữ bí mật cho những bí mật - và quyết định
sáng suốt cái nào là bí mật đáng giữ - là trách nhiệm của Tổng thống,
không phải của báo chí, có thể dễ dàng áp dụng cho hôm nay. Hitz cũng
vậy, ông cũng thấy những tiếng vọng cũ trong vụ hiện nay. Ông lấy làm
tiếc về việc tiết lộ những tài liệu này, nhưng nói rằng tác hại thật sự
nếu họ không đảm bảo truy tố dưới ánh sáng của Tu chính án số Một. “Tôi
lo lắng khủng khiếp về điều này,” ông nói với TIME. “Anh phải có những
thông tin tốt có trong chính quyền và trong số những người cung cấp tin
tức tình báo nếu anh định tiếp tục cuộc chiến chống khủng bố này. Và
điều này sẽ làm chậm lại những cố gắng đó như một chuyện dĩ nhiên. Việc
tiết lộ này sẽ làm (các cơ quan tình báo nước ngoài) có được nhiều hơn
những thông tin họ có.”
Thật
ra, ông nói, Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton và những người khác
đang bận rộn làm yếu đi vụ án này của chính phủ. Các quan chức Mỹ đang
ngày đêm làm việc để làm giảm bớt tính nghiêm trọng của những rò rỉ. Và
bối rối như vậy, đó không phải là cái cách đàng hoàng (để truy tố),” ông
nói.
Về
phần mình, Lieberman nói Holder nên chính thức buộc tội Assanger, và để
các quan tòa rà soát toàn bộ hiến pháp tìm ra bất kỳ mẩu nhỏ nào cho
phép làm điều đó. Nhưng Abrams nói đó là cách làm nguy hiểm. “Tôi nói
những nguy cơ tiềm tàng nặng hơn cái lợi của việc truy tố. Tôi nghĩ cái ý
định bột phát truy tố là hợp lý, và tôi không có ý định phê phán chính
phủ vì đã coi nó là nghiêm túc. Nhưng cuối cùng, tôi nghĩ nó có thể làm
hại cho an ninh quốc gia nhiều hơn là nếu cho qua vụ này.”
Nếu
Holder nhất định xúc tiến vụ này, ông có thể phải lo về những trở ngại
trực tiếp hơn. Lúc này, Assange đang nằm ngoài quyền hạn xét xử của Hoa
Kỳ, và cả Abrams lẫn Hitz đều nói rằng các nước châu Âu, ngay cả những
nước thân thiết nhất, sẽ nhìn một cách nghi ngờ vào bất kỳ yêu cầu dẫn
độ nào có vẻ có bản chất chính trị./.
06.01.2011
[1]1] Nguyên văn: classified cables - những bức điện được phân loại mật, từ đây đều dịch gọn là “mật điện” -(ND)
[3][2]
Tu chính án số Một (đối với Hiến pháp Hoa Kỳ) là một phần của Luật Nhân
quyền. TCA số I cấm làm ra những luật cản trở tự do tôn giáo, vi phạm
tự do ngôn luận, tự do báo chí, can thiệp vào quyền tụ họp hòa bình.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét