Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013
Vì sao đồng qui sinh ra xung đột: Càng trở nên giống nhau, Trung Quốc và Mỹ lại càng xa nhau
15:16
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tháng 11 1, 2013
Mark Leonard
Trần Ngọc Cư dịch
pro&contra
– Từ nhiều năm nay, mọi động thái đối ngoại của Hà Nội đều được dư luận
đánh giá như những dấu hiệu hoặc là tiếp tục thân – thậm chí phụ thuộc –
Bắc Kinh, hoặc là đang bắt đầu xích lại gần Washington, theo nghĩa hai
khả năng đối lập. Trong bài viết sau đây, nhà nghiên cứu chính trị quốc
tế Mark Leonard chỉ ra rằng Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên giống
nhau và hệ quả của điều đó trong trật tự thế giới hiện tại và sắp tới.
______________
Nhiều người lo ngại rằng trong một tương
lai không xa, thế giới sẽ bị chia ra nhiều mảng vì hố sâu ngăn cách
giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng nới rộng. Họ nêu lên câu hỏi, vì sao một
chế độ độc tài cộng sản và một chế độ dân chủ tư bản có thể bắc một
chiếc cầu để khắc phục khoảng cách giữa hai bên? Nhưng đã đến lúc ta nên
từ bỏ cái tư duy cho rằng hai nước này đến từ những hành tinh khác nhau
và những căng thẳng giữa chúng là sản phẩm của những dị biệt giữa hai
quốc gia. Trên thực tế, cho đến tương đối gần đây, Trung Quốc và Mỹ khá
hòa hợp với nhau – chính vì những lợi ích và thuộc tính của hai nước
khác nhau. Ngày nay, chính những tương đồng ngày càng gia tăng, chứ
không phải những dị biệt, đang đẩy hai nước cách xa nhau.
Quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn tương phản
với quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô, nước sau cùng đã thách thức quyền lực
Mỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, khi địa chính trị trước hết là một cuộc xung
đột ý thức hệ, sự tiếp xúc ngày càng gia tăng và tính đồng qui ngày
càng phát triển giữa hai xã hội phân cách nhau đã nuôi dưỡng được chính
sách hoà hoãn.
Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình
diện quốc tế trong thời đương đại đã đảo ngược tiến trình tương tác đó.
Ngày nay, các nước cạnh tranh nhau vì địa vị quốc tế thì nhiều, mà vì ý
thức hệ thì ít. Do đó, những dị biệt giữa các đại cường thường dẫn đến
sự bổ túc cho nhau và hợp tác với nhau, trong khi sự tương đồng thường
là nguyên nhân xung đột. Trong khi tái quân bình nền kinh tế và rà soát
lại chính sách đối ngoại của mình, Bắc Kinh và Washington ngày một đối
đầu về những lợi ích chung. Và hình như Sigmund Freud đã tiên đoán được
trường hợp này: Trung Quốc và Mỹ càng trở nên giống nhau, thì hai nước
lại càng ít thích nhau. Freud gọi hiện tượng này là “nỗi ám ảnh về những
dị biệt tiểu tiết”: đó là xu thế tập trung vào những dị biệt rất nhỏ
giữa những người vốn dĩ giống nhau để biện minh cho những tình cảm xung
khắc của họ. Hẳn nhiên, hai nước này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng
hố sâu chia rẽ hai nước một thế hệ trước đây đã thu hẹp lại, và khi càng
giống nhau thì càng dễ trở nên xung đột.
Vào thời điểm Tổng thống Mỹ Obama lên
cầm quyền năm 2009, ông hi vọng đưa Trung Quốc vào các cơ chế toàn cầu
và khuyến khích nước này đồng hóa lợi ích của mình với việc duy trì hệ
thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo sau Thế chiến. Nhưng chỉ gần năm
năm sau, theo một quan chức Mỹ nắm vững tư duy Tổng thống Mỹ mà tôi có
dịp trao đổi vào đầu năm nay, thái độ của Obama đối với Trung Quốc được
mô tả chính xác nhất là “thất vọng”. Theo quan chức này, Obama thấy rằng
phía Trung Quốc đã bác bỏ nỗ lực của ông trong việc tạo dựng một dạng
“G-2” không chính thức trong chuyến viếng thăm Trung Quốc đầu tiên của
ông, tháng Mười Một 2009, và những bất đồng giữa Bắc Kinh và Washington
về thay đổi khí hậu, về những vấn đề trên biển và an ninh mạng đã khiến
Obama tin rằng Trung Quốc là một vấn nạn hơn là một đối tác.
Về phần mình, lãnh đạo Trung Quốc không
muốn đề cao một trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo, một trật tự mà
họ không đóng vai trò tạo dựng. Đó là lý do tại sao, trong thời gian
trước cuộc họp với Obama tháng Sáu vừa qua tại Khu nhà nghỉ Sunnylands
tại California, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thúc đẩy thiết lập
một “loại quan hệ đại cường mới” – một cách nói được mã hóa để người
Trung Quốc nhắn nhủ người Mỹ phải tôn trọng Trung Quốc như một quốc gia
ngang hàng với Mỹ, phải đáp ứng những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của
Trung Quốc, và phải dự kiến Trung Quốc xác định lợi ích của mình chứ
không hậu thuẫn những nghị trình quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Trong
khi hai cường quốc lớn nhất toàn cầu chiều chuộng chứng thần kinh của
mình, phần còn lại của thế giới đâm ra lo lắng. Trong một loạt vấn đề
kinh tế và địa chính trị quan trọng, Bắc Kinh và Washington ngày càng ra
sức qua mặt nhau hơn là đầu tư vào những định chế chung. Điều này sẽ có
hiệu ứng sâu xa trên thế giới. Mặc dù mậu dịch toàn cầu sẽ bành trướng
và các định chế toàn cầu sẽ còn tồn tại, nhưng chính trị quốc tế sẽ
không bị khống chế bởi các quốc gia giàu mạnh hay các tổ chức quốc tế mà
bởi những cụm quốc gia xích lại gần nhau vì có lịch sử và mức độ giàu
có giống nhau, và tin tưởng rằng lợi ích quốc gia của chúng bổ túc cho
nhau. Những nhóm quốc gia thực tiễn và có phần tùy nghi này sẽ tìm cách
phát triển thế mạnh của chúng từ trong nhóm ra ngoài, và sự tương tác
giữa chúng với nhau sẽ làm lu mờ đội hình của cái trật tự tự do đa
phương và thống nhất mà Mỹ và đồng minh đã cố gắng xây dựng từ khi Chiến
tranh Lạnh chấm dứt.
KẾT THÚC THỰC THỂ CHIMERICA
Trong gần hai thập kỷ qua, Trung Quốc và
Mỹ đã tận hưởng một quan hệ cộng sinh gần như tuyệt hảo. Tiền tiết kiệm
của Trung Quốc nuôi sức tiêu thụ của Mỹ. Các công ty Trung Quốc chế tạo
những sản phẩm do các công ty hậu công nghiệp Mỹ thiết kế và bảo dưỡng.
Và chính sách đối ngoại hướng nội của Trung Quốc trên cơ bản không làm
lung lay vai trò bá quyền của Mỹ. Nhà sử học Niall Ferguson và nhà kinh
tế Moritz Schularick cho rằng hai nước đã quyện chặt vào nhau đến nỗi họ
bắt đầu gọi chúng như một thực thể riêng: “Chimerica” [China + America,
ND].
Nếu quả thật từng có một Chimerica thì
nó tồn tại nhờ cái thực tế là: mặc dù triết lý cai trị của hai quốc gia
khác nhau sâu sắc, nhưng chúng chỉ khác nhau theo cung cách cái ổ khóa
và cái chìa khóa khác nhau. Trung Quốc được điều hành theo “đồng thuận
Đặng Tiểu Bình”, mang tên của nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lùi về phía sau
vào những năm 1990, nhưng viễn kiến của ông vẫn tiếp tục dẫn đường cho
nước này nhiều năm nữa. Mục đích trước tiên của Đặng là duy trì ổn định
quốc nội và quốc tế bằng cách tránh xa một nghị trình đầy tham vọng
trong chính sách đối ngoại và, thay vào đó, chỉ tập trung vào tăng
trưởng kinh tế thông qua xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Trong khi đó,
tín lý cai trị của Mỹ trong thập niên 1990 dựa vào một chính sách đối
ngoại theo chủ nghĩa can thiệp nhằm bảo vệ một trật tự thế giới do Mỹ
lãnh đạo, một trật tự đặt cơ sở trên tự do mậu dịch ở nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế trong nước nhờ sức mạnh tín dụng. Hai viễn kiến này
không có gì giống nhau, nhưng chúng cũng ít khi đối đầu xung đột; thật
ra, chúng thường bổ túc cho nhau. Hẳn nhiên, trong giai đoạn này, Bắc
Kinh và Trung Quốc vẫn cạnh tranh với nhau. Nhưng vì hai nước xuất phát
từ những mức quyền lực rất chênh lệch, cuộc đọ sức trở thành bất đối
xứng đến nỗi ít gây ra cọ xát. Vả lại, hai cường quốc này thường theo
đuổi những mục đích hoàn toàn khác nhau và dựa vào những phương tiện rất
khác nhau. Tại châu Á, Mỹ tập trung vào việc duy trì vai trò siêu cường
quân sự của mình và chống lại bất cứ sáng kiến kinh tế nào mà Mỹ không
nắm quyền hoạch định – thậm chí cả khi chúng được đưa ra bởi một đồng
minh như Nhật Bản là nước đã đề nghị thành lập một quỹ tiền tệ châu Á
trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98, một ý tưởng bị
Washington bác bỏ. Trái lại, vào thời điểm đó, Trung Quốc đã tìm cách
trấn an các nước láng giềng về “cuộc trỗi dậy hòa bình” của mình bằng
cách hậu thuẫn việc hội nhập đa phương trong khu vực và hứa hẹn các nước
này một phần thưởng kinh tế trong cuộc trỗi dậy của Trung Quốc thông
qua các hợp đồng thương mại. Ở bên ngoài châu Á, lúc bấy giờ Bắc Kinh và
Washington cũng tránh giẫm đạp lên chân nhau: Mỹ dành ưu tiên cao nhất
cho mối quan hệ với các nước dân chủ tiên tiến khác và các nước giàu
năng lượng tại Trung Đông, còn Trung Quốc thì dồn các nỗ lực ngoại giao
của mình vào việc tìm kiếm cơ hội tại châu Phi và châu Mỹ La tinh, những
vùng mà Mỹ đã rút lui.
HOÁN CHUYỂN VỊ TRÍ
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã kết
thúc kỷ nguyên Chimerica. Thức tỉnh vì nhận ra sự yếu kém của mình trước
các lỗi hệ thống đã đưa đến cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh và Washington
cương quyết tái quân bình quan hệ kinh tế với nhau, một quan hệ mà cả
hai nước đều nhận thấy đã trở nên thiếu lành mạnh. Nhưng trong khi rà
soát lại chính sách đối nội và đối ngoại của mình để tìm cách thích nghi
với nền kinh tế toàn cầu đột nhiên trở nên yếu kém, cả hai nước bắt đầu
phản ánh lẫn nhau trong những cung cách có khả năng thúc đẩy tính cạnh
tranh hơn là tính bổ túc.
Trong lãnh vực kinh tế, Trung Quốc đang
tìm cách giảm bớt sự lệ thuộc lâu dài vào hàng xuất khẩu và đang cố gắng
kích thích mức tiêu thụ trong nước và phát triển một nền kinh tế dịch
vụ nội địa. Trong khi đó, Mỹ đang nâng đỡ khu vực chế tạo hàng hóa của
mình, một phần bằng chủ trương hạ giá đồng Mỹ kim thông qua việc gia
tăng nguồn tiền cho các ngân hàng [quantitative easing] và bằng việc trợ
cấp khu vực chế tạo xe hơi, và khuyến khích tăng trưởng kinh tế do xuất
khẩu chủ đạo thông qua một loạt hợp đồng thương mại mới với các nước
giàu, gồm Nhật Bản và các quốc gia trong khối Liên Âu.
Các nỗ lực sản xuất hàng hóa giá trị cao
của Trung Quốc và những toan tính tái công nghiệp hóa của Mỹ sẽ dẫn đến
tình trạng là hai nước sẽ cạnh tranh trực tiếp hơn, khi nước này tiến
gần đến phương thức sản xuất và tiêu thụ truyền thống của nước kia.
Chẳng hạn, Trung Quốc không còn muốn cung cấp các linh kiện rẻ tiền bên
trong chiếc iPhone chỉ để đứng nhìn những lợi nhuận lớn nhất dồn vào tay
một công ty Mỹ. Thay vào đó, Trung Quốc đang khuyến khích các công ty
Trung Quốc nên theo gương Huawei, một công ty đặt trụ sở tại Quảng Đông
đã cực kỳ thành công trong việc bán ra các điện thoại thông minh bắt
chước chiếc iPhone, mà lợi nhuận của công ty này vẫn nằm trong nước. Tuy
nhiên, trong quan hệ của mỗi nước với phần còn lại của thế giới, cả hai
cường quốc đang trở nên giống nhau một cách rất ngoạn mục – trong một
số trường hợp gần như đang hoán chuyển vai trò truyền thống của nhau.
Trung Quốc đang phấn đấu để điều hành ảnh hưởng toàn cầu đang lên của
mình. Giới tinh hoa trong chính sách đối ngoại của đất nước này đang lao
vào một cuộc tái tư duy rộng lớn về chiến lược Trung Quốc; họ chất vấn
mọi tín điều trong đường lối “ẩn mình để chờ thời cơ” của thời đại Đặng
Tiểu Bình, gồm cả truyền thống tránh can thiệp vào nội bộ nước khác của
Trung Quốc. Tiến trình này được thúc đẩy bởi cuộc chiến do NATO lãnh đạo
năm 2011 nhằm lật đổ nhà lãnh đạo Libya Muammar al-Qaddafi, khi Trung
Quốc kinh ngạc nhận ra rằng nhiều nước đang phát triển đã ủng hộ việc
can thiệp của quốc tế. Sức ép đòi hỏi Trung Quốc phải có một chính sách
đối ngoại ít thụ động hơn phát xuất từ các công ty Trung Quốc muốn được
che chở tại những thị trường nguy hiểm ở nước ngoài; từ một đội ngũ trí
thức theo chủ nghĩa toàn cầu chủ trương rằng trong một thế giới mà Trung
Quốc hiện diện tại nhiều điểm nóng, Bắc Kinh phải từ bỏ sự dè dặt của
mình để chấp nhận các hoạt động quốc tế; và từ những người hoạch định
chính sách Trung Quốc hiếu chiến tin tưởng rằng Trung Quốc cần phải
quyết đoán hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình ở nước ngoài. Thậm chí
nếu những tranh luận này có thắng thế đi nữa, Trung Quốc sẽ không vội
tung ra những cuộc can thiệp vì lý do nhân đạo theo kiểu Mỹ nhưng những
người làm chính sách Trung Quốc sẽ bớt rụt rè hơn trong việc can thiệp
vào nội bộ của nước khác. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong), Viện trưởng
Viện Bang giao Quốc tế Hiện đại tại Đại học Thanh Hoa, đã nói với tôi,
“Khi Trung Quốc mạnh bằng Mỹ, chúng tôi sẽ có một đường lối đối với vấn
đề chủ quyền giống hệt như Mỹ.”
Và khi đề cập đến chính trị khu vực,
những trí thức diều hâu như Diêm đang bày tỏ những hoài nghi về việc
Trung Quốc có nên đặt lợi ích kinh tế cao hơn những mục tiêu chính trị
hay không. Sự chuyển biến tư duy này có thể giải thích quyết định của
chính phủ Trung Quốc năm 2010 trong việc tạm thời ngưng xuất khẩu khoáng
sản đất hiếm sang Nhật Bản và quyết định của Trung Quốc hai năm sau đó
trong việc giới hạn nhập khẩu trái cây từ Philippines trong thời gian
hai nước xung đột về các đảo trong Biển Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam –
N.D.]. Những động thái này diễn ra song song với việc chính quyền có vẻ
dung túng những cuộc biểu tình đôi khi bạo động được tổ chức bởi các
phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc nhằm chống lại các công ty Nhật Bản
đang hoạt động tại Trung Quốc, dù sự bất ổn đó đã khiến một số công ty
này phải dời sang Việt Nam.
Trong một chuyển biến nhiều kịch tính
hơn, giới hàn lâm Trung Quốc cũng đang tranh luận là liệu nước họ có nên
xét lại việc chống đối các liên minh thường trực không. Năm ngoái, Diêm
và các trí thức diều hâu khác công khai đề nghị rằng Trung Quốc nên
phát triển các hình thức gần như liên minh với khoảng trên một chục
nước, gồm các cộng hòa Trung Á, Miến Điện, Bắc Triều Tiên, Pakistan,
Nga, và Sri Lanka, cấp cho họ những đảm bảo an ninh và, đối với những
nước nhỏ trên danh sách này, có lẽ cả sự che chở của chiếc dù hạt nhân
Trung Quốc. Những động thái này không phải là điều mà nguyên Thứ trưởng
Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick nghĩ tới vào năm 2005 khi ông kêu gọi
Trung Quốc nên trở thành một “thành viên có trách nhiệm” trong trật tự
toàn cầu.
Tiếp sức cho tính quyết đoán quốc tế
ngày một gia tăng của Trung Quốc là sự phát triển một hệ thống chính trị
trong nước ngày càng tham gia bàn việc nước, trong đó nhiều trường phái
khác nhau thi đua tranh luận vấn đề và cũng là nơi Internet và nhất là
các phương tiện truyền thông xã hội đã tạo ra một công luận sinh động
hơn trước nhiều. Trong quá khứ, các nhà làm chính sách phương Tây thường
lên án Trung Quốc đã dùng thủ đoạn để nuôi dưỡng hận thù dân tộc rồi
lấy cớ là hành động của mình bị hạn chế vì sự phẫn nộ của người dân.
Nhưng ngày nay, tiếng trống thúc quân của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc
có vẻ chân thật hơn là ngụy tạo. Trong Chiến tranh Lạnh, các nhà phân
tích phương Tây cho rằng Đảng Cộng sản là xấu và xã hội dân sự là tốt.
Nhưng ngày nay, Đảng Cộng sản có xu thế thúc đẩy một sự tự chế ở nước
ngoài, trong khi người dân Trung Quốc bình thường lại đòi hỏi Đảng phải
có hành động cứng rắn hơn.
Trong khi Trung Quốc cân nhắc phải làm
thế nào để nới rộng ảnh hưởng quốc tế và những cam kết của mình, thì Mỹ
đang ra sức hòa giải cái tham vọng siêu cường quốc tế của mình với tâm
trạng thấm mệt chiến tranh của người dân và những đe dọa về nợ nần quốc
gia. Obama đã tìm cách phát triển một mô hình lãnh đạo ít tốn kém: một
phiên bản kiểu Mỹ của đường lối Đặng Tiểu Bình, với sự khác biệt là
trong khi Đặng cố gắng che giấu sự giàu có đang gia tăng của Trung Quốc,
thì Obama lại tìm cách che giấu sự thiếu hụt nguồn lực ngày càng trầm
trọng của Mỹ. Trên thực tế, đường lối này của Mỹ gồm: trừng phạt các
nước thù nghịch như Iran và Bắc Triều Tiên bằng biện pháp kinh tế, truy
kích khủng bố bằng máy bay không người lái, tránh đơn phương can thiệp ở
nước ngoài mà có xu thế “lãnh đạo từ đằng sau”, và thiết lập những quan
hệ thực tiễn với các quốc gia hùng mạnh như Nga. Từ góc nhìn của Trung
Quốc, dấu hiệu có vẻ báo nguy nhất đối với Trung Quốc là chiến lược
“xoay trục” về châu Á của Mỹ có vẻ như mô phỏng theo chính sách ngoại
giao đa phương và chiến lược thương mại của Bắc Kinh. Thật vậy, như một
nhà chiến lược của Lầu Năm góc đã nói với tôi gần đây, “Thay vì chơi cờ
tướng, chúng tôi đang chơi cờ vây”, một loại cờ bàn cổ đại của Trung
Quốc. Nhưng thậm chí khi Trung Quốc và Mỹ phát triển những đường lối
khác nhau để bành trướng ảnh hưởng, cả hai đều bám lấy một hình thức của
chủ nghĩa biệt lệ [exceptionalism]. Cả hai đều tin rằng mình khỏi phải
tuân theo một số yếu tố nhất định của luật pháp quốc tế và mình được
định mệnh giao phó một vai trò khống chế khu vực tại châu Á. Tuy nhiên,
cả hai nước đều khó có thể hòa hợp cái xác tín ấy với cảm giác mà mỗi
bên đều có, rằng trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau này
mình đã bị nước kia chơi trội. Người Mỹ than phiền về mất công ăn việc
làm, còn người Trung Quốc thì than phiền về việc đã mất đi những số tiền
dành dụm bằng mồ hôi nước mắt. Washington than phiền rằng Bắc Kinh
không chơi theo luật, còn Bắc Kinh thì phản bác rằng những luật này đều
do phương Tây bày ra để kềm hãm các nước khác. Khi căng thẳng gia tăng,
nhiều khía cạnh của quan hệ Mỹ-Trung mà đã có thời cả hai bên cho là cơ
hội lại có vẻ đang ngày càng là những mối đe dọa.
HAI BÊN TÌM ĐƯỜNG TRÁNH NHAU
Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã tự
do hóa nền kinh tế của mình, tạo ra một giai cấp trung lưu lên đến hàng
trăm triệu người, và chứng kiến sự ra đời một công luận đích thực [a
genuine public sphere] trong số hơn 500 triệu người dân Trung Quốc sử
dụng Internet. Trung Quốc đã được đón mời vào các định chế quốc tế như
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và G-20 và được nhiều Tổng thống Mỹ
liên tiếp đối xử bằng những tuyên bố công khai bày tỏ sự kính trọng.
Nhiều nhân vật tại Washington từng hi vọng rằng những chuyển biến này sẽ
đi liền với việc Trung Quốc gia tăng hậu thuẫn đối với hệ thống quốc tế
do phương Tây lãnh đạo. Nhưng họ đã thất vọng vì thấy Trung Quốc không
đáp ứng theo mong muốn của mình.
Thật vậy, thay vì bị những định chế toàn
cầu chuyển hóa, Trung Quốc theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương
rất tinh vi, làm thay đổi trật tự toàn cầu. Ở G-20, Trung Quốc đứng cùng
phe với các nước chủ nợ, như Đức, một nước mà Trung Quốc đã liên minh
năm 2010 khi người Đức chống lại một gói kích thích kinh tế toàn cầu do
Mỹ đề xuất. Washington cũng thất vọng vì Bắc Kinh đã góp phần kết liễu
Vòng đàm phán Doha về thương mại thế giới, bằng cách giữ thái độ bất
động vào thời điểm các cuộc đàm phán có dấu hiệu lâm nguy. Tại LHQ,
Trung Quốc đã đẩy lùi sự phát triển các qui phạm bảo vệ tự do: trong
thời gian 1997-98, các quốc gia khác bỏ phiếu theo Washington về những
vấn đề nhân quyền tại Đại hội đồng là 80% số lần; trái lại, vào năm đó,
các nước “bỏ phiếu theo” Bắc Kinh về các vấn đề này là 40%. Vào năm
2009-2010, những con số này gần như bị đảo ngược: khoảng 40% bỏ phiếu
theo Mỹ và gần 70% theo Trung Quốc trên các vấn đề nhân quyền. Sự thay
đổi lập trường này một phần là do Trung Quốc giành được hậu thuẫn của
các nước đang phát triển bằng cách cho vay nhẹ lãi, trực tiếp đầu tư, và
hứa hẹn bảo vệ những nước này trong trường hợp Hội đồng Bảo an LHQ đưa
ra những nghị quyết trừng phạt họ.
Trước sự thất vọng của phương Tây, các
học giả Trung Quốc, như nhà sử học vai vế Thì Ân Hoành (Shi Yinhong),
tranh luận rằng phương Tây không nên quá bận tâm về việc “thúc đẩy Trung
Quốc hội nhập vào trật tự tự do của phương Tây”, mà thay vào đó nên
điều chỉnh cái trật tự ấy “để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc”, như
Thì đã nói với tôi gần đây. Sự điều chỉnh này sẽ đòi hỏi một sự tái phân
phối rộng lớn ảnh hưởng chính thức trong các định chế tài chính và an
ninh toàn cầu, theo đó quyền lực được phân phối cho các quốc gia thành
viên sẽ không tùy thuộc vào các khái niệm được định sẵn từ trước là ai
sẽ có quyền cai quản, mà tùy thuộc vào “sức mạnh đích thực mà mỗi nước
có được và sự đóng góp mà mỗi nước đã thể hiện”, như Thì lý giải. Trên
thực tế, Thì tranh luận, Mỹ sẽ phải chấp nhận một thế cân bằng quân sự
với Trung Quốc (chí ít ở phía đông Đài Loan), việc thống nhất bằng đường
lối hòa bình của Trung Quốc và Đài Loan theo điều kiện của Bắc Kinh, và
một khoảng “không gian chiến lược” nhỏ hẹp nhưng quan trọng đối với
Trung Quốc ở tây Thái Bình Dương. Hơn thế nữa, hệ thống liên minh của Mỹ
cần phải “giảm bớt tập trung vào quân sự và giảm bớt việc lấy Trung
Quốc làm mục tiêu”.
Nhưng cho dù giới tinh hoa Trung Quốc có
muốn gì đi nữa, phương Tây vẫn chưa sẵn sàng điều chỉnh trật tự thế
giới hiện hữu để đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc. Và thay vì chấp
nhận những nhượng bộ cần thiết cho một G-2 hay sự bế tắc của nguyên
trạng, các cường quốc phương Tây đang tránh đối đầu trực tiếp với Bắc
Kinh trong khi theo đuổi những quan hệ và những chính sách nhằm hạn chế
khả năng của Trung Quốc trong việc uốn nắn hệ thống quốc tế theo ý mình.
Trong những năm gần đây, chẳng hạn, một
nhóm quốc gia có lợi tức cao do Mỹ lãnh đạo và gồm cả Australia, Canada,
Malaysia, và Singapore đã bắt đầu đàm phán để thông qua Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương, một thương ước cố ý loại trừ Trung Quốc và
nhấn mạnh những tiêu chuẩn khắt khe đối với các doanh nghiệp nhà nước,
với quyền lợi công nhân, với các biện pháp bảo vệ môi trường, và quyền
sở hữu trí tuệ. Nếu cuối cùng Nhật Bản cũng gia nhập, các thành viên của
TPP sẽ chiếm đến 40% GDP toàn cầu. Thậm chí còn tham vọng hơn cả TPP là
những cuộc đàm phán được khởi động gần đây về Hiệp định Đối tác Đầu tư
xuyên Đại Tây Dương, một kế hoạch đã được bàn bạc từ lâu nhằm tạo ra một
hiệp ước tự do mậu dịch giữa EU và Mỹ, một hiệp ước sẽ cho các nước
phương Tây những lợi thế đáng kể trong bất cứ một cuộc đàm phán thương
mại nào sau này với Trung Quốc. Mục tiêu của những hiệp ước mới này
không phải là để đẩy Trung Quốc ra khỏi nền mậu dịch quốc tế, mà để soạn
ra các qui định không có sự tham gia của Trung Quốc để rồi sau này buộc
Trung Quốc phải chấp nhận chúng. Phương Tây cũng đang có những nỗ lực
song song trong lãnh vực an ninh. Mỹ đang cố gắng sử dụng chiến lược
xoay trục hướng về châu Á để củng cố những quan hệ lâu đời với nhiều
nước chung quanh Trung Quốc nhằm gây cản trở cho tham vọng bá quyền quân
sự của Trung Quốc ở khu vực tây Thái Bình Dương. Trong các nỗ lực can
thiệp quốc tế, phương Tây đang gia tăng “việc tìm kiếm diễn đàn” [forum
shopping]: hợp tác với những tổ chức khu vực, như Liên đoàn Á rập và
Liên hiệp châu Phi, và dựa vào những liên minh không chính thức, như
Nhóm Bạn của Syria [Friends of Syria], bất cứ khi nào chính sách ngoại
giao tại LHQ bị bế tắc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng hoạt động ráo riết
không kém để qua mặt phương Tây. Trung Quốc đã thành lập các định chế
an ninh của chính mình, như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, và đã ký kết các
thoả ước mậu dịch đơn phương và đa phương với nhiều nước khắp thế giới.
Trung Quốc cũng thường xuyên tổ chức các hội nghị thượng đỉnh với các
đối tác BRICS và đang cố gắng thành lập một ngân hàng phát triển BRICS
với tiềm năng nắm giữ một danh mục cho vay lớn gấp ba lần danh mục cho
vay của Ngân hàng Thế giới. [BRICS: viết tắt của Brazil, Russia, India,
China, South Africa, ND]
CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỒNG ĐA PHƯƠNG
Đứng giữa các trật tự thế giới do Mỹ và
Trung Quốc dẫn đầu là các cơ chế toàn cầu như Hội đồng Bảo an LHQ, Nhóm
G-20, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, và Ngân hàng Thế giới. Nhưng chúng thường gặp
phải bế tắc do các bất đồng giữa những nước thành viên. Do đó, thay vì
buộc các cường quốc mới nổi [emerging powers] phải thích nghi với các
định chế phương Tây, hi vọng lớn nhất có thể có được từ những định chế
này là chúng sẽ là nơi để các đại cường thảo luận những vấn đề đặc biệt
bức thiết: chẳng hạn, cuộc tan chảy tài chính toàn cầu 2008 hay sự ngoan
cố của Bắc Triều Tiên về vấn đề hạt nhân. Sự yếu kém và vô bổ của những
định chế này có thể trở nên ngày một tồi tệ, vì đáng lẽ phải hợp tác để
cải tổ những diễn đàn chung đã có sẵn, các cường quốc phương Tây lại cố
gắng xây dựng “một thế giới phi-Trung Quốc” trong khi Trung Quốc và các
nước đối tác cố gắng tạo ra cái mà một số nhà phân tích gọi là “một thế
giới phi-Tây phương.” Chẳng hạn, Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư
xuyên Đại Tây Dương có thể ảnh hưởng [tiêu cực] đối với WTO. Như chuyên
gia kinh tế Bỉ André Sapir đã lý giải, nếu các nước chiếm gần một nửa
GDP toàn cầu thành lập hệ thống giải quyết tranh chấp riêng, tách khỏi
WTO, thì cái WTO một thời kiêu hãnh này “sẽ giống như một tổ chức khác
có trụ sở tại Geneva, Tổ chức Lao động Quốc tế, một nơi có mặt tiền xinh
đẹp trên hồ Léman mà hằng năm các vị bộ trưởng đến đọc những bài diễn
văn hay ho nhưng chẳng bao giờ lấy những quyết định quan trọng.”
Thay vì coi những cơ chế đa phương toàn
cầu là tối cần, các nước sẽ dựa nhiều hơn nữa vào các mạng lưới mới
thành lập giữa các quốc gia có cùng mức độ thịnh vượng. Xin tạm gọi hiện
tượng này là “chủ nghĩa tương đồng đa phương” [similateralism]. Một
trong những hậu quả của hiện tượng này sẽ là một hình thái lưỡng cực mới
và lạ thường, bên ngoài có vẻ giống Chiến tranh Lạnh chứ không còn
giống như thế giới của hai thập niên qua. Những khác biệt này sẽ bao gồm
một nước Mỹ mất dần thanh thế, một đối thủ khôn ngoan hơn (và thành
công hơn) ngang hàng với Washington, và các nước phi liên kết hùng mạnh
hơn trước. Nhưng những động lực của chính trị toàn cầu trên cơ bản cũng
sẽ khác với những động lực chi phối thế giới trong năm thập kỷ sau Thế
chiến II.
Một, khác với Chiến tranh Lạnh, bản chất
của cuộc đua này chủ yếu sẽ là địa kinh tế [geoeconomic] hơn là địa
chính trị [geopolitical], do hậu quả của những tốn kém ngày một gia tăng
của việc duy trì sức mạnh quân sự.
Hai, sự cạnh tranh Mỹ-Trung có đặc tính
là: hai cường quốc đã lệ thuộc vào nhau ở mức độ cao, vì sự xâm nhập lẫn
nhau giữa hai nền kinh tế là rất sâu đậm. Tuy nhiên, các nhà làm chính
sách của hai nước lại coi sự lệ thuộc lẫn nhau này là một mối nguy cần
phải giảm bớt và quản lý, chứ không coi đó là một công thức để xây dựng
những quan hệ nồng ấm. Mỹ cần Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu chính
phủ của Mỹ, và các bang của Mỹ đang cạnh tranh ráo riết để thu hút đầu
tư Trung Quốc. Nhưng Washington cũng lo lắng về sự quá lệ thuộc vào vốn
Trung Quốc và lo sợ gián điệp mạng Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc cần
tìm một nơi an toàn để cất giữ những lượng tiền dự trữ của mình và cần
đến công nghệ Mỹ để xây dựng một xã hội tri thức. Nhưng Bắc Kinh tức
giận vì cho rằng chính sách gia tăng nguồn cung tiền [quantitative
easing] của Cục dự trữ Liên bang Mỹ đang làm tiêu tán đống tiền của
Trung Quốc và nghi ngờ rằng Washington đang hoạt động để thúc đẩy việc
thay đổi thể chế tại Trung Quốc.
Ba, mặc dù nhiều nước phi liên kết cuối
cùng phải chọn một chiến tuyến trong Chiến tranh Lạnh, nhưng trong những
thập niên tới, những nước phi liên kết có thể khai thác sự hiện hữu của
những khối quyền lực linh động hơn, không đòi hỏi nếu theo phe này phải
loại bỏ phe kia. Hậu quả sẽ là một trật tự thế giới lang chạ [a
promiscuous world ordwer] trong đó các nước có thể ký kết các hiệp định
với cả Trung Quốc lẫn Mỹ.
Sau cùng, Bắc Kinh và Washington sẽ kình
chống nhau vì địa vị toàn cầu chứ không phải vì ý thức hệ. Cho đến nay
Trung Quốc vẫn còn quá yếu và ở vào thế thủ, chưa đủ sức để đưa ra một
phương án thay thế cho cái trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo, nhưng
tình hình này sắp thay đổi. Trung Quốc và Mỹ sẽ sử dụng cùng một thứ từ
ngữ trong việc lý giải những động lực của mình như: “trật tự,” “tính
chính đáng,” “tăng trưởng kinh tế,” và “trách nhiệm.” Nhưng, như người
ta thường nói, hai nước này sẽ bị chia cách bởi cùng một ngôn ngữ.
MARK LEONARD là Đồng sáng lập viên
kiêm Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu và là Nhà nghiên cứu
Chính sách công trong chương trình Bosch tại Học viện Xuyên Đại Tây
dương. Ông là tác giả của hai cuốn sách gây tiếng vang và được dịch ra
gần 20 thứ tiếng là Why Europe Will Run the 21st Century (2005) và What Does China Think? (2008).
Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra
0 nhận xét:
Đăng nhận xét