Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013
Vicken Cheterian (Open Democracy, Anh, 10/03/2011) – Bạo loạn trong các nước Arab và các cuộc cách mạng màu
10:46
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Các
cuộc bạo loạn ở các nước Arab trong năm 2010 – 2011 lan truyền với tốc
độ và cường độ rất cao. Chỉ sau ba tháng, vụ phản đối bắt đầu tại thành
phố Sidi Bouzid ở Tunisia vào giữa tháng 12 năm 2010 đã trở thành làn
sóng bạo loạn nhấn chìm hai vị tổng thống, bao trùm lên một khu vực lãnh
thổ từ Morocco đến vùng người Kurd ở Irak; làm sống lại ngọn lửa của
phe đối lập Iran và tiếp tục cháy ở Bahrain, Libya, Yemen và nhiều nơi
khác nữa.
Hiện tượng đáng chú ý xảy ra ở
khu vực này kích thích người ta đi tìm những chuyện tương tự đã từng xảy
ra trong quá khứ. Một số người so sánh nó với làn sóng cách mạng vĩ đại
gọi là “mùa xuân của các dân tộc” ở châu Âu hồi năm 1848 và với phong
trào giải phóng ở Đông và Trung Âu hồi năm 1989 và những năm sau đó (gọi
là “mùa xuân Arab”). Người ta cũng đã viện dẫn kĩ thuật thông tin được
những người hoạt động của phong trào sử dụng (gọi là “cách mạng
facebook” hay “cách mạng twitter”) để giải thích nó.
Tuy nhiên sự tương đồng và tiểu
tiết được mang ra so sánh chỉ có tính chất giới hạn mà thôi. Các sự kiện
diễn ra vào năm 1989 ở Đông Âu đặc biệt ở chỗ nó đã quét sạch thành quả
của cuộc cách mạng năm 1917 và (trong hai năm sau đó) đã kích hoạt một
loạt cuộc cách mạng: sụp đổ hệ thống (kinh tế chỉ huy), sụp đổ đế chế
(Hiệp ước Warsaw), tàn lụi một nhà nước (Liên Xô) và sụp đổ hệ tư tưởng
mang tính toàn cầu (Chủ nghĩa cộng sản Xô Viết).
Công nghệ mới đóng vai trò nhất
định trong ngành báo in vào năm 1848. Chúng đã được sử dụng một cách cực
kì hữu hiệu ở Tunisia và Ai Cập và có ảnh hưởng lớn ở cả những nơi khác
nữa. Nhưng tập trung chú ý quá mức vào các phương tiện này có thể dẫn
đến ý tưởng cho rằng những chuyện xảy ra ở Trung Đông và Bắc Phi là cuộc
cách mạng của tầng lớp trung lưu nhằm sửa chữa “trường hợp ngoại lệ
mang tính lịch sử” của khu vực và làm cho họ trở thành giống như “chúng
ta”.
Mã màu
Muốn tìm hiểu cuộc khởi nghĩa
trong thế giới Arab thì kinh nghiệm quá khứ phải được sử dụng với một sự
thận trọng nhất định, và phải thấy sự phức tạp (cũng như tính chất chưa
trọn vẹn) của các sự kiện. Chỉ có như thế ta mới có thể đánh giá được
chiều sâu của chúng và thấy được quĩ đạo của chúng thông qua lăng kính
của cái gọi là “những cuộc cách mạng màu” từng tấn công các chế độ ở một
số nước châu Âu và Trung Á trong nửa đầu những năm 2000.
Các vụ phản đối và thay đổi chế
độ được gọi là “cách mạng màu” (theo màu hoặc hoa mà những người đòi
thay đổi dùng làm biểu tượng) bao trùm lên một loạt nước: Serbia (2000),
Georgia (2003), Ukraine (2004), Kyrgyzstan (2005). Những cố gắng khác
với kết quả tương tự - ở Bạch Nga, ở Azerbaijan, Lebanon (2005) và Miến
Điện (2007) đôi khi cũng được coi là một phần của làn sóng đó.
Kinh nghiệm của mỗi dân tộc mỗi
khác, nhưng cũng có những điểm chung. Thứ nhất, các cuộc cách mạng màu
diễn ra sau những cuộc bầu cử gian dối trong các nước nửa-độc tài, với
vai trò chủ đạo là những nhóm người trẻ tuổi có tổ chức, biết kết hợp
một cách khéo léo các khẩu hiệu thông minh với hành động bất bạo lực đầy
sáng tạo nhằm truyền bá thông điệp của mình. Otpor (“phản kháng”) ở
Serbia, Kmara (“đủ rồi”) in Georgia, và Pora (“đến lúc rồi”) ở Ukraine
là những thành tố nổi bật trong cuộc bạo loạn nhằm chống lại chế độ độc
tài ở những nước này. Các phong trào nêu trên là ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thành lập phong trào Kefaya (“đủ rồi”) ở Ai Cập vào năm 2004 với
mục đích động viên nhân dân, tạo ra những thay đổi chống lại chế độ của
Hosni Mubarak.
Thứ hai, mặc dù động viên nhân
dân là động lực chủ yếu, nhưng cách mạng màu còn được những người từng
giữ những vị trí cao lãnh đạo. Mikheil Saakashvili từng là bộ trưởng tư
pháp khi Eduard Shevarnade làm tổng thống Georgia và trước khi trở thành
lãnh tụ “cách mạng hoa hồng” chưa đến hai năm còn là đảng viên đảng cầm
quyền của nước này; và trước “cách mạng cam” Viktor Yushchenko đã từng
là thủ tướng Ukraine; còn Kurmanbek Bakiyev từng là thủ tướng
Kyrgyzstan.
Theo ý nghĩa đó, những cuộc cách
mạng này còn chứa trong lòng nó yếu tố cạnh tranh trong nội bộ giới
tinh hoa: phe cấp tiến nhận thức được rằng bầu cử không thể chuyển hóa
được quyền lực, và muốn có những thay đổi cần thiết thì phải động viên
được dân chúng ra những quảng trường chính của đất nước.
Thứ ba, khác với những cuộc cách
mạng “cổ điển” ở Pháp và Nga, cách mạng màu là cách mạng phi bạo lực.
Đấy là lí tưởng của phe đối lập nhằm chống lại chế độ chính trị hủ bại
nhưng vẫn quyết tâm bám víu vào quyền lực (bằng những cuộc bầu cử gian
dối và sẵn sàng sử dụng bạo lực); nhưng nó cũng còn liên quan tới xu
hướng của các “nhà cách mạng” là thực hiện các cuộc cải cách chính trị
(mà một số tiền bối của họ đã tuyên bố nhưng không thực hiện được): dân
chủ hóa, cải tạo theo hướng thị trường, liên kết mật thiết hơn với
phương Tây.
Thứ tư, các cuộc cách mạng màu
chứng tỏ rằng nhà nước độc tài không thể chặn đứng được cuộc bạo loạn
của dân chúng. Khi mười ngàn người đổ ra đường và trong lực lượng an
ninh sự ngờ vực đã lấn át lòng trung thành (thí dụ như khi người ta đưa
quân đội tới nhưng binh sĩ không chịu nổ súng), cán cân nhanh chóng
nghiêng về phía người biểu tình. Điều đó đã diễn ra ở Serbia vào tháng
10 năm 2000, khi lực lượng cảnh sát đặc biệt, gọi là “mũ nồi đỏ” không
chịu bắn vào người biểu tình ở Belgrade và Slobodan Milosevic không còn
được ai bảo vệ nữa.
Nhưng khi nhà nước sử dụng bạo
lực thì đấy cùng có thể là biệu hiện của sự yếu đuối và chuẩn bị sụp đổ.
Ở Kyrgyzstan vào tháng 4 năm 2010, Kurmanbek Bakiyev (người đã giành
được quyền lực trong cuộc nổi dậy của nhân dân vào năm 2005) ra lệnh cho
cảnh sát bắn vào đoàn biểu tình hơn 10.000 người tại thủ đô Bishkek. 86
người thiệt mạng và hơn 1.000 người bị thương chỉ là cho dân chúng giận
dữ thêm, phủ tổng thống bị tấn công và Bakiyev phải chuồn sau đó một
ngày.
Khác biệt
Dấu vết của các sự kiện trong
trận cuồng phong ở Tunisia và Ai Cập còn rất rõ, ít nhất đấy không chỉ
là áp bức không thể ngăn chặn được thủy triều, và các binh sĩ không còn
trung thành với những nhà độc tài già nua sống biệt lập trong những lâu
đài của họ mà chuyển sang ủng hộ những người biểu tình trẻ tuổi, họ
không còn dùng dùi cui và còng số tám để đánh đập, bắt bớ người nữa.
Nhưng sự khác biệt giữa các cuộc
cách mạng màu và các cuộc nổi dậy ở các nước Arab có thể sâu sắc hơn
thế. Thứ nhất, không nên đề cao quá mức vai trò của những người trẻ tuổi
có học, động lực của những cuộc nổi dậy gần đây là sự tức giận của
thanh niên trước những điều kiện xã hội tuyệt vọng và không có cơ hội
tìm việc làm – khó có thể coi là giống nhau. Thứ hai, giới tinh hoa đối
lập sau nhiều năm bị đè nén thường đứng bên lề, bị đẩy khỏi sân khấu
chính trị và đã ngạc nhiên trước sự vùng lên của quần chúng.
Thứ ba, có khác biệt trong đề
tài của các cuộc phản kháng. Ở Georgia và Ukraine, nhân dân đứng lên
chống lại những tàn dư chính trị từ thời Xô Viết: những nhà cầm quyền
già nua không có khả năng cải cách hệ thống chính trị và hiện đại hóa
nền kinh tế. Ở Nam Tư, thanh niên được hưởng nhiều quyền tự do hơn là
tại các nước bị cộng sản Liên Xô khống chế. Đến năm 2000, tức là hai
thập kỉ sau khi Tito chết và một thập kỉ sau khi đất nước tan rã, thế hệ
trẻ tiếp theo ở Serbia nhìn thấy Ba Lan và Hungragy vượt lên để trở
thành một phần của EU.
Những người bạn của họ ở Georgia
và Ukraine cũng có quan niệm tương tự như thế với các nước cộng hòa
hậu-Xô Viết là Estonia, Latvia hay Lithuania, trong khi họ hầu như mới
chỉ bắt đầu “chuyển sang” nền kinh tế thị trường và nền dân chủ theo
kiểu phương Tây mà thôi. Cuộc cách mạng hòa bình là con đường nhằm đoạn
tuyệt với thế hệ cũ vì thế hệ này đã không thể “hiện đại” và “tây hóa”.
Khác với các nước đó, tình cảnh
tuyệt vọng vì không có bất kì tương lai nào cho sự thay đổi đã khởi động
phong trào trong thế giới Arab. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng harraga
ở Algeria hay Tunisia (ước mơ đến được bến bờ châu Âu của những người
dự định di cư trên những con thuyền nhỏ). Có vẻ như việc lật đổ Zine El
Abidine Ben Ali cũng chưa đánh dấu chấm hết cho những chuyến tha hương
đầy tuyệt vọng của thanh niên Tunisia.
Thứ tư, sự có mặt cũng như vắng
mặt của khía cạnh quốc tế cũng rất đáng lưu ý. Những người tham gia các
cuộc cách mạng màu nổi lên chống lại những tàn dư của đế chế đã sụp đổ
(Liên Xô) và muốn tham gia vào trật tự phương Tây. Phương Tây khuyến
khích, giúp đỡ và trong một số trường hợp còn trợ giúp về tài chính như
cuộc khởi nghĩa ở Serbia, Georgia và Ukraine cũng được giúp đỡ một cách
hạn chế hơn.
Phương Tây không có vai trò gì
trong cuộc khởi nghĩa Arab. Sự hợp tác một cách rộng rãi về mặt an ninh
giữa các nước phương Tây với các chế độ Arab là một phần của lời giải
thích, nhưng đây chỉ là một phần của chính sách hậu thuộc địa, kéo theo
nền kinh tế dựa trên dầu hỏa hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống kinh tế
của phương Tây, nạn tham nhũng về mặt tài chính, và chính sách đối với
Palestine mà không quốc gia dân chủ Arab nào ủng hộ. Trên khía cạnh này,
các nước phương Tây (đặc biệt là châu Âu) nên có cách tiếp cận mới dựa
trên sự ủng hộ mang tính nguyên tắc với nền dân chủ Arab.
Những bài học
Kết quả của các cuộc cách mạng
màu có thể đem đến những bài học cho các cuộc nổi dậy trong thế giới
Arab; nơi mà người ta đang phải đối mặt với những vấn đề chính trị-xã
hội còn sâu sắc hơn, đấy là nói khi so sánh với Serbia hay Ukraine.
Thứ nhất, lật đổ nhà độc tài già
nua chưa phải là sự thay đổi hệ thống. Có hai mô hình. Ở Ukraine,
Viktor Yushchenko, tổng thống hậu-cách-mạng-cam không mang lại nhiều
thay đổi, ngoại trừ việc tôn trọng các cuộc bầu tự do. Kết quả là Viktor
Yanukovich, đối thủ của ông ta, đã trở lại cầm quyền vào tháng 2 năm
2010 và những vụ đàn áp nhân quyền diễn ra sau đó; còn Mikheil
Saakashvili, tổng thống hậu-cách-mạng-hoa-hồng ở Georgia thì thiết lập
chính phủ trung ương tập quyền với một quốc hội nằm hoàn toàn trong tay
đảng cầm quyền, còn các phương tiện thông tin đại chúng thì có ít tự do
hơn là trước đây. Nói cách khác, kết quả chung cuộc của cuộc cách mạng
hoa hồng ở Georgia rất giống với điểm bắt đầu của cuộc nổi dậy trong thế
giới Arab.
Thứ hai, các lực lượng ủng hộ
thay đổi ở Tunisia và Ai Cập – cũng như ở những nước muốn thay đổi chính
phủ - cần phải đi tiếp nhằm biến bạo loạn thành cách mạng. Điều đó sẽ
quyết định những hành động có diễn ra nữa hay sẽ dừng lại. Các phong
trào của thanh niên như Kmara (“đủ rồi”) hay Pora (“đến lúc rồi”) cuối
cùng đã không tạo ra lực lượng chính trị mới; Kmara đã hòa tan vào đảng
cầm quyền ở Georgia, còn Pora – ban đầu đã liên kết với đảng của
Yushchenko nhằm phản đối kết quả cuộc bầu cử quốc hội vào năm 2006,
nhưng không có kết quả.
Thành phần xã hội của cuộc nổi
dậy ở Arab làm cho nó có thể trở thành cấp tiến hơn là cách mạng màu.
Nhưng vẫn còn rất nhiều điều chưa chắc chắn, một số có liên quan đến
việc thiếu vắng lãnh đạo. Thanh niên Arab có tiếp tục lật đổ các nhà độc
tài, tạo điều kiện cho những người khác thủ lợi từ chân không quyền lực
hay họ sẽ đi tiếp nhằm tạo ra những định chế mới và một nền văn hóa
chính trị mới? Bất kì việc so sánh lịch sử nào cũng phải dừng lại ở đây.
Tương lai không thể dự đoán, nó sẽ được hình thành trên đường phố của
Cairo, Tunis, Benghazi và Sana.
Vicken Cheterian là phóng viên
và nhà phân tích chính trị đang làm việc cho tổ chưa NGO gọi là CIMERA ở
Geneva. Ông đã xuất bản các tác phẩm War and Peace in the Caucasus:
Russia’s Troubled Frontier (C Hurst / Columbia University Press, 2009)
và From Perestroika to Rainbow Revolutions: Reform and Revolution After
Socialism (C Hurst, 2011).
Nguồn: The Arab revolt and the colour revolutions
0 nhận xét:
Đăng nhận xét