Thực trạng sử dụng vốn ODA ở Việt Nam
1. Khái niệm:
Viện trợ phát triển chính thức ODA ( Official Development Assistant)
ODA là nguồn vốn hổ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoảng viện
trợ và cho vay với điều kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành
cho các nước đang và kém phát triển được các các cơ quan chính thức của
chính phủ trung ương và điạ phương hoặc các cơ quan thừa hành của chính
phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Vốn
ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, được tổ chức quốc
tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp định quốc
tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hổ trợ vốn ký kết.Hiệp
định ký kết hổ trợ nầy được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo cách thức hoàn trả ODA có ba loại:
+ Viện trợ không hoàn lại : Là loại ODA mà bên nước nhận không phải
hoàn lại, nguồn vốn nầy nhằm để thực hiện các dự án ở nước nhận vốn ODA,
theo sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể xem viện trợ không hoàn
lại như một nguồn thu ngân sách của nhà nước, dược cấp phát lại theo nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại
chiếm 25% tổng số ODA trên thế giới và được ưu tiên cho những dự án về
các lãnh vực như y tế, dân số, giáo dục, môi trường...
+ Viện
trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là loại vốn ODA với một
lãi suất ưu đãi và một thời gian trả nợ thích hợp, tín dụng ưu đãi chiếm
một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thê giới. Nó không được sử
dụng cho mục tiêu xã hội, môi trường mà thường được sử dụng cho các dự
án về cơ sở hạ tầng thuộc các lãnh vực giao thông vân tãi, nông nghiệp,
thủy lợi, năng lượng...làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng
kinh tế. Các điều kiện ưu đãi bao gồm:
• Lãi suất thấp
• Thời gian trả nợ dài
• Có khoảng thời gian không trả lãi hoặc trả nợ
+ ODA cho vay hỗn hợp: Là loại ODA kết hợp hai dạng trên, bao gồm một phần không hoàn lại và tín dụng ưu đãi.
* Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao BOT (Built-Operation-Transfer)
Do thiếu vốn nên Chính Phủ có thể kêu gọi các công ty bỏ vốn xây dựng
trước (Built) thông qua đấu thầu, sau đó khai thác vận hành một thời
gian (Operation) và sau cùng là chuyển giao (Transfer) lại cho nhà nước
sở tại. Hình thức nầy cũng được sử dụng ở VN, nhưng sau một thời gian có
nhười ta có chung một nhận xét là thường các dự án dạng BOT giá thành
thường được đẩy lên cao hơn thực tế nhiều do phía đầu tư biết rằng bên
đối tác thiếu vốn để xây dựng để phát triển cơ sở hạ tầng và có quá
nhiều nước đang phát triển cần vốn.
2. Thực tiễn sử dụng vốn ODA
Vốn ODA đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được nhận
nhiều ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh
vực giao thông vận tải, truyền thông và năng lượng.
Hơn 4,5 tỷ USD
vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và đang được thực hiện để
phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung cho đường bộ,
đường biển và giao thông nông thôn.
Vốn ODA đã được sử dụng để khôi
phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676 km đường quốc lộ; khôi phục và cải
tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ; Quốc lộ 5, quốc lộ 1A (đoạn Hà
Nội-Vinh; đoạn TP. Hồ Chí Minh-Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh-Nha Trang); làm
mới và khôi phục 188 cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc
lộ 18 với tổng chiều dài 33,7 km; cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường
nông thôn và khoảng 31 km cầu nông thôn quy mô nhỏ; Cầu Mỹ Thuận; xây
dựng mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,62 km (khẩu độ bình quân
khoảng 25 – 100 m).
Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp giai đoạn 1
cho cảng Hải Phòng để có thể bốc xếp được 250.000 TEV/năm; nâng cấp cảng
Sài Gòn có công suất bốc xếp từ 6,8 triệu tấn/năm lên 8,5 triệu
tấn/năm; xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân; cải tạo cảng Tiên Sa, Đà
Nẵng.
Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện với
tổng cam kết cho đến năm 2003 là 3,7 tỷ USD, hiện chiếm 40,3% trong tổng
vốn đầu tư với 7 nhà máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa
Mi, Sông Hinh, Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc) có công suất thiết kế chiếm
40% tổng công suất của các nhà máy điện ở Việt Nam xây dựng trong kế
hoạch 5 năm 1996 – 2000. Tổng công suất phát điện tăng thêm do đầu tư
bằng nguồn vốn ODA là 3.403 MW, bằng tổng công suất điện từ trước cho
tới năm 1995. Trong ngành năng lượng điện, vốn ODA còn đầu tư để phát
triển hệ thông đường dây và mạng lưới điện phân phối điện, bao gồm các
dự án đường dây 500 KV Plâyku – Phú Lâm, đường dây 220 KV Tao Đàn – Nhà
Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện
thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố.
Trong số 4,45
tỉ USD vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết danh cho Việt nam đưa ra
tháng 12 năm 2006, các nước tài trợ cũng dành ưu tiên viện trợ cho các
lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Nhật bản, nước ở vị trí dẫn đầu với mức cam kết
890,3 triệu USD cho biết số ưu tiên này sẽ ưu tiên cho phát triển cơ sở
hạ tầng, cụ thể là tuyến đường săt cao tốc Bắc – Nam và bảo vệ môi
trường. Pháp với vốn viện trợ cam kết lớn thứ hai trong các nhà tài trợ
và đứng đầu khối EU là 370,4 triệu USD cũng cho biết nguồn vốn ODA sẽ
được sử dụng trong bốn lĩnh vực ưu tiên là giao thông đô thị, đường sắt,
môi trường (quản lý nước và rác thải), phát triển nông thôn. Ngoài ra,
các cam kết này cũng sẽ hỗ trợ các hoạt động trong lĩnh vực y tế và hiện
đại hoá ngành tài chính. Nguồn vốn ODA dành cho năng lượng điện và giao
thông chiếm tới hơn 40% vốn ODA của Việt Nam.
* ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội.
Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu
USD, chiếm khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp
phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo,
tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng
dạy và học, như dự án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án
đào tạo nghề...
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một
số chương trình xã hội có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và
phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ
em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình chăm sóc sức khỏe
ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của nước ta
trong bảng xếp hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên
hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.
ODA không chỉ bổ sung
nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều quan trọng là đã góp phần
thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong các lĩnh vực xã hội
đòi hỏi có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư, như phòng chống
đại dịch HIV/AIDS, phòng chống ma túy...
* ODA đã có tác dụng
tích cực trong tăng cường năng lực, phát triển thể chế trên nhiều lĩnh
vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính...
Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn các cán bộ
được đào tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng
mang lại những kinh nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát
triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và bảo vệ
môi trường, quản lý nhà nước, pháp luật.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật
của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị đúng hạn và được
Chính phủ trình Quốc hộ thông qua góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách thể
chế trong tiến trình của Việt Nam gia nhập WTO như Luật Đầu tư, Luật Đấu
thầu, Luật Phòng chống tham nhũng...;
Việc cải thiện và nâng cao
chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa bệnh thông qua các
dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Chợ Rẫy và Bạch
Mai và các dự án hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản trong lĩnh vực y tế cũng
đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sỹ cũng như trang
thiết bị khám chữa bệnh, qua đó cải thiện đời sống của nhân dân, đặc
biệt là dân nghèo thành thị.
Thông qua chương trình tài trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do Nhật Bản tài trợ, Ngân hàng Nhà nước đã
hỗ trợ phát triển sản xuất cho 105 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo nhiều
công ăn việc làm ổn định. Ngoài số vốn 216 tỷ VND cho vay lại, các Ngân
hàng thực hiện tham gia đóng góp khoảng 130 tỷ VND và người vay cuối
cùng góp khoảng 256 tỷ VND, nâng tổng số vốn đầu tư cho nền kinh tế lên
khoảng 602 tỷ VND.
* ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 cho tới nay, công cuộc
xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Số
liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ
lệ dân nghèo đã giảm từ 58% vào năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và 28,9%
vào năm 2002 trong khi tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ 25% năm 1993
xuống 15% năm 1998 và 9,96% năm 2002. Trong giai đoạn 1993-1998, tốc độ
giảm nghèo đói trung bình hàng năm ở Việt Nam là 7,5% nhanh hơn tốc độ
phát triển kinh tế trung bình là 6,4% cho cùng thời kỳ. Kết quả này cho
thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà nước ta đã
cam kết với thế giới. Điều này cho thấy phát triển kinh tế ở Việt Nam
mang tính rộng rãi, tác động lên mọi bộ phận dân cư của cả nước.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét