Mức cao |
|
Mức thấp |
|
Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012
Thuyết nhu cầu của Maslow về kỹ năng động viên nhân viên
07:32
Hoàng Phong Nhã
No comments
Thuyết nhu cầu của A. Maslow là thuyết
đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con
người nói chung. Cho đến nay, chưa có thuyết nào thay thế tốt hơn
thuyết này mặc dù cũng có khá nhiều “ứng cử viên" có ý định thay thế.
Theo thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành
các thang bậc khác nhau từ "đáy” lên tới “đỉnh”, phản ánh mức độ "cơ
bản” của nó đối với sự tồn tại và phát triển của con người vừa là một
sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.
Việc sắp xếp nhu cầu
theo thang bậc từ thấp đến cao cho thấy độ “dã man" của con người giảm
dần và độ “văn minh” của con người tăng dần.
Bậc thang nhu cầu của MASLOW
Cấp độ thấp nhất và cơ
bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người gồm nhu cầu ăn,
mặc, ở... Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu được bảo
vệ. Nhu cầu an toàn có an toàn về tính mạng và an toàn về tài sản. Cao
hơn nhu cầu an toàn là nhu cầu quan hệ như quan hệ giữa người với
người, quan hệ con người với tổ chức hay quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Con người luôn có nhu cầu yêu thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu
này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Ở trên cấp
độ này là nhu cầu được nhận biết và tôn trọng. Đây là mong muốn của
con người nhận được sự chú ý, quan tâm và tôn trọng từ những người
xung quanh và mong muốn bản thân là một “mắt xích” không thể thiếu
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng cho
thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng theo
một điều giản đơn là “xã hội chuộng của chuộng công”. Vì thế, con
người thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người tôn vọng và
kính nể. Vượt lên trên tất cả các nhu cầu đó là nhu cầu sự thể hiện.
Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con người tự nhận
thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích và chỉ
khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng. Thuyết
nhu cầu sắp xếp nhu cầu con người từ thấp lên cao. Những nhu cầu ở cấp
cao hơn sẽ được thỏa mãn khi nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng.
Con người cá nhân hay
con người trong tổ chức chủ yếu hành động theo nhu cầu. Chính sự thỏa
mãn nhu cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ hành động. Đồng thời
việc nhu cầu được thỏa mãn và thỏa mãn tối đa là mục đích hành động
của con người. Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan
trọng và việc tác động vào nhu cầu cá nhân sẽ thay đổi được hành vi
của con người. Nói cách khác, người lãnh đạo hoặc quản lý có thể điều
khiển được hành vi của nhân viên bằng cách dùng các công cụ hoặc biện
pháp để tác động vào nhu cầu hoặc kỳ vọng của họ làm cho họ hăng hái và
chăm chỉ hơn với công việc được giao, phấn chấn hơn khi thực hiện
nhiệm vụ và tận tụy hơn với nhiệm vụ đảm nhận. Trong trường hợp ngược
lại việc không giao việc cho nhân viên là cách thức giảm dần nhiệt
huyết của họ và cũng là cách thức để nhân viên tự hiểu là mình cần tìm
việc ở một nơi khác khi làm việc là một nhu cầu của người đó.
Trong một doanh nghiệp
hoặc tổ chức nhu cầu co bản có thể được đáp ứng thông qua việc trả
lương tốt và công bằng, cung cấp các bữa ăn trưa hoặc ăn giữa ca miễn
phí hoặc bảo đảm các khoản phúc lợi khác như tiền thưởng theo danh
hiệu thi đua, thưởng các chuyến tham quan, du lịch, thưởng sáng
kiến... Để đáp ứng nhu cầu an toàn, Nhà quản lý có thể bảo đảm điều
kiện làm việc thuận lợi, bảo đảm công việc được duy trì ổn định và đối
xử công bằng đối với nhân viên. Để bảo đảm đáp ứng nhu cầu quan hệ,
người lao động cần được tạo điều kiện làm việc theo nhóm, được tạo cơ
hội để mở rộng giao lưu giữa các bộ phận, khuyến khích mọi người cùng
tham gia ý kiến phục vụ sự phát triển doanh nghiệp hoặc tổ chức. Cũng
để đáp ứng nhu cầu phát triển quan hệ, doanh nghiệp hoặc tổ chức cần có
các hoạt động vui chơi, giải trí nhân các dịp kỷ niệm hoặc các kỳ
nghỉ khác. Để thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng người lao động cần được
tôn trọng về nhân cách, phẩm chất. Bên cạnh được trả tiền lương hay có
thu nhập thỏa đáng theo các quan hệ thị trường, họ cũng mong muốn
được tôn trọng các giá trị của con người. Các Nhà quản lý hoặc lãnh
đạo, do đó, cần có co chế và chính sách khen ngợi, tôn vinh sự thành
công và phổ biến kết quả thành đạt của cá nhân một cách rộng rãi. Đồng
thời, người lao động cũng cần được cung cấp kịp thời thông tin phản
hồi, đề bạt nhân sự vào những vị trí công việc mới có mức độ và phạm
vi ảnh hưởng lớn hơn. Đối với nhu cầu tự hoàn thiện, Nhà quản lý hoặc
ông chủ cần cung cấp các cơ hội phát triển những thế mạnh cá nhân.
Đồng thời, người lao động cần được đào tạo và phát triển, cần được
khuyến khích tham gia vào quá trình cải tiến trong doanh nghiệp hoặc
tổ chức và được tạo điều kiện để họ tự phát triển nghề nghiệp. Các tập
đoàn kinh doanh lán trên thế giới “thu phục” khá nhiều nhân viên
giỏi, kể cả những nhân viên rất “khó tính” từ nhiều nước khác nhau do
cơ chế hấp dấn mạnh nguồn tài năng này qua việc tạo điều kiện cho họ
có “nhà lầu xe hơi", việc làm ổn định, tiền lương trả rất cao và khả
năng thăng tiến mạnh, kể cả giao cho họ những trọng trách và vị trí
lãnh đạo chủ chốt trong Công ty...
Như vậy để có kỹ năng
khuyến khích và động viên nhân viên, Nhà quản lý hoặc lãnh đạo cần
nghiên cứu và tìm hiểu cụ thể nhu cầu của nhân viên mình và có biện
pháp hữu hiệu để đáp ứng, nghĩa là họ cần biết “chiều” nhân viên một
cách họp lý và có dụng ý. Một nhân viên vừa mới được tuyển dụng đang
cần việc làm và có thu nhập cơ bản thì việc tạo co hội việc làm và thu
nhập cho bản thân nhân viên này là vấn đề cắn được quan tâm hàng đầu.
Còn một nhân viên đã công tác có “thâm niên’ trong Công ty công việc
đã thuần thục và tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm công tác tiền
lương đã được trả cao thì nhu cầu của nhân viên đó phải là đạt được vị
trí, chức vụ trong doanh nghiệp hoặc tổ chức. Việc đề bạt chức vụ công
tác mới ở vị trí cao hơn hiện tại cho nhân viên này sẽ khuyến khích
người này làm việc hăng say và có hiệu quả hơn.
Hiện nay, ở Việt Nam có
tình trạng mặc dù mức lương được trả khá cao trong các doanh nghiệp
liên doanh song nhiêu người vãn không muốn làm việc trong liên doanh
mà họ muốn làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam với mức
lương thấp hơn rất nhiều. Lý do chủ yếu xuất phát từ quan niệm làm
việc trong các liên doanh khó bảo đảm cho sự tiến thân và phát triển
địa vị xã hội. Điều này có nghĩa là các liên doanh với nước ngoài
không đáp ứng được nhu cầu thăng quan, tiến chức của những người này
so vái các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam... Đối với những đối tượng
như thế, tiền lương hoặc thu nhập không phải là giải pháp thỏa mãn
trực tiếp nhu cầu của họ mà phải là chức vụ mà họ phải đạt được. Vì
thế, người chủ doanh nghiệp hoặc người đứng đầu một tổ chức cần tuỳ
hoàn cảnh cụ thể để vận dụng thuyết nhu cầu này vào việc phát hiện nhu
cầu của từng nhân viên hình thành và phát triển các kỹ năng khuyến
khích nhân viên một cách thích hợp.
Nguồn: Tạp chí Nhà quản lý
0 nhận xét:
Đăng nhận xét